Thơ Nôm của Nguyễn Công Trứ – Những bài hay nhất
Nguyễn Công Trứ (1788 – 1858) là một nhà thơ kì dị cuối thế kỷ 19 tại Việt Nam. Không có những ngôn từ mĩ miều và thanh thoát, thơ Nguyễn Công Trứ thể hiện trực tiếp các tư tưởng và thái độ với cuộc đời, với thời cuộc. Nguyễn Công Trứ bị ám ảnh và đảo phách giữa hai đời sống: Một là tự do, phóng khoáng; hai là phận vị với dân, với nước. Bởi vậy, thơ ông đầy những mâu thuẫn thú vị.
Chúng tôi xin được chọn những bài thơ hay nhất của Nguyễn Công Trứ
BÀI CA NGẤT NGƯỞNG
Vũ trụ nội mạc phi phận sự
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng
Lúc bình Tây, cờ đại tướng
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên
Đô môn giải tổ chi niên
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng
Kìa núi nọ phau phau mây trắng
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng
Được mất dương dương người tái thượng
Khen chê phơi phới ngọn đông phong
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng
Không Phật, không tiên, không vướng tục
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!
CA TỰ BIỆT
Kẻ về người ở
Bồi hồi thay lúc phân kỳ
Khéo quấy người hai chữ tình si
Lửa ly biệt bầng bầng không lúc nguội!
Bát ngát trăm đường bối rối
Biệt thì dung dị, kiến thì nan
Trót đa mang khúc hát cung đàn
Nên dan díu mối tình chưa dứt
Sá nghĩ xa xôi nghìn dặm đất
Tiếc công đeo đẳng mấy năm trời
Khi ra vào tiếng nói giọng cười
Một ngày cũng là người tri kỷ
Sao nỡ để kẻ vui người tẻ
Gánh tương tư riêng nặng bề bề?
Thương thay người ở đôi quê
Nẻo đi thì nhớ, nẻo về thì thương!
Tính sao cho vẹn trăm đường?
CẦM KỲ THI TỬU I
Trời đất cho ta một cái tài
Giắt lưng dành để tháng ngày chơi
Dở duyên với rượu khôn từ chén
Trót nợ cùng thơ phải chuốt lời
Cờ sẵn bàn son xe ngựa đó
Đàn còn phím trúc tính tình đây
Ai say, ai tỉnh, ai thua được
Ta mặc ta mà ai mặc ai!
Cầm, kỳ, thi, tửu,
Đường ăn chơi mỗi vẻ mỗi hay…
Đàn năm cung réo rắt tính tình đây
Cờ đôi nước rập rình xe ngựa đó
Thơ một túi phẩm đề câu nguyệt lộ
Rượu ba chung tiêu sái cuộc yên hà
Thú xuất trần, tiên vẫn là ta
Sánh Hoàng Thạch, Xích Tùng, ờ cũng đáng!
Thơ rằng:
Cầm tứ tiêu nhiên kỳ tứ sảng
Thi hoài lạc hĩ, tửu hoài nồng
Một chữ nhàn giá lại đáng muôn chung
Người ở thế, dẫu trăm năm là mấy?
Sách có chữ “nhân sinh thích chí”
Đem ngàn vàng chác lấy chuyện cười
Chơi cho lịch mới là chơi
Chơi cho đài các, cho người biết tay!
Tài tình, dễ mấy xưa nay!
CHÍ LÀM TRAI
Vòng trời đất dọc ngang ngang dọc
Nợ tang bồng vay trả trả vay
Chí làm trai nam bắc đông tây
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể
Nhân sinh thế thuợng thuỳ vô nghệ
Lưu đắc đan tâm chiếu hãn thanh
Đã chắc ai rằng nhục rằng vinh
Mấy kẻ biết anh hùng thời vị ngộ
Cũng có lúc mây tuôn sóng vỗ
Quyết ra tay lèo lái trận cuồng phong.
Chí những toan xẻ núi lấp sông
Làm nên tiếng anh hùng đâu đấy tỏ
Đuờng mây rộng thênh thênh cử bộ
Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo
Thảnh thơi thơ túi ruợu bầu.
CHƠI XUÂN KẺO HẾT XUÂN ĐI
Ngẫm cho kỹ đến bất nhân là tạo vật
Đã sinh người lại hạn lấy năm
Kể chi thằng lên bẩy, đứa lên năm
Dẫu ba vạn sáu nghìn ngày là mấy chốc?
Lại mang lấy lợi danh, vinh nhục
Cuộc đời kia lắm lúc bi hoan
E đến khi hoa rữa trăng tàn
Xuân một khắc, dễ nghìn vàng đổi chác?
Tế suy vật lý tu hành lạc
An dụng phù danh bạn thử thân
Song bất nhân mà lại chí nhân
Hạn lấy tuổi để mà chơi lấy
Cuộc hành lạc bao nhiêu là lãi bấy
Nếu không chơi, thiệt ấy ai bù?
Nghề chơi cũng lắm công phu!
ĐÁNH THỨC NGƯỜI ĐỜI
Xót người tiền đếm gạo lường
Thế mà cũng chịu một trường hoá sinh
Nhân sinh bất hành lạc
Thiên tuế diệc vi thường
Đã đem vào cuộc hý trường
Lại muốn theo phường thái cực
Chuồn đội mũ mượn mầu đạo đức
Thịt hay ăn một cục tham si
Gác thay thảy là cầm là kỳ là tửu là thi
Rất đỗi y quần chi hạ
Bất tri hữu thử trân mỹ giả
Ôi trời đất người đâu người thế
Mấy trăm năm là mấy trăm năm
Khiến cho lạc giả thương tâm
ĐI THI TỰ VỊNH
Đi không, há lẽ trở về không?
Cái nợ cầm thư phải trả xong!
Rắp mượn điền viên vui tuế nguyệt
Trót đem thân thế hẹn tang bồng
Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông
Trong cuộc trần ai, ai dễ biết?
Rồi ra mới rõ mặt anh hùng
ĐỜI NGƯỜI THẤM THOẮT
Nhân sinh ba vạn sáu nghìn thôi
Vạn sáu tiêu nhăng đã hết rồi!
Nhắn con tạo hoá xoay thời lại,
Để khách tang bồng rộng đất chơi
ĐƯỜNG CÔNG DANH
Cùng đạt có riêng chi mệnh số
Hành tàng nào hẹn với văn chương?
Đường công danh sau trước cũng là thường
Con tạo hoá phải rằng ghen ghét mãi?
Duyên ngư thuỷ còn dành cơ hội lại
Quyết tang bồng cho phỉ chí trượng phu
Trong trần ai, ai kém ai đâu?
Tài bộ thế, khoa danh, ờ, lại có!
Thơ rằng: Độc thư thiên bất phụ
Hữu chí sự cánh thành
Giang sơn đành có cậy trông mình
Mà vội mỉa anh hùng chi bấy nhẽ?
Đã sinh ra ở trong phù thế
Nợ trần ai đành cũng tính xong
Nhắn lời nói với non sông
Giang sơn hầu dễ anh hùng mấy ai?
Thanh vân, trông đó mà coi
HÀNH TÀNG
Đánh ba chén rượu khoanh tay giấc
Ngâm một câu thơ, vỗ bụng cười
Cái công danh là cái nợ đời
Đường thản lý, cát nhẫn chi đã vội
Giắt lỏng giang sơn vào nửa túi
Rót nghiêng phong nguyệt cạn lưng bầu
Cảnh cùng thông ai có bận chi đâu
Mùi tiêu sái với trần gian dễ mấy
Thơ rằng:
Hữu danh nhàn phú quý
Vô sự tiểu thần tiên
Đấng anh hùng yên phận lạc thiên
So trời đất cũng nhất ban xuân ý
Khi lang miếu đã đành công danh ấy
Lúc yên hà khước thị xuất nhân gian
Hành tàng bất nhị kỳ quan
Cõi đời mở mặt, giang san thái hoà
Còn xuân mai lại còn hoa.
MUỘN THÀNH ĐẠT
Cảnh muộn, đi về nghĩ cũng rầu
Trông gương mà thẹn với hàm râu!
Có từng gian hiểm, mình càng trí
Song lắm phong trần, lụy cũng sâu
Năm ấy đã qua thời chẳng lại
Lộc kia có muộn mới còn lâu
Khi vui giễu cợt mà chơi vậy
Tuổi tác ngần này đã chịu đâu!
NHÀN NHÂN VỚI QUÝ NHÂN
Cơn chếnh choáng xoay vần trời đất lại,
Chốc ngâm nga xáo lộn cổ kim đi.
Cái công danh là cái chi chi,
Quý nhân tưởng bất như nhàn nhân quý.
Thú yên hà gửi nơi thành thị,
Nhớ Đông Ba, Gia Hội có hai cầu.
Khi gió mát lúc trăng thâu,
Dập dìu những văn nhân tài tử.
Trong ngọc đá vàng thau ai biết thử,
Có xanh xanh trên ấy đã cầm quyền.
Đua hồng sánh lục bấy nhiêu niên,
Nào đã thấy hoa khôi là mấy mặt.
Thôi cũng muốn Nam vô Di đà Phật,
Trót dở đem thân thế hẹn tang bồng.
Nghìn dặm đường một gánh non sông,
Còn mơ tưởng năm xưa cầm với hạc.
Thời nhân bất thức dư tâm lạc,
Mượn phong tình mà giả nợ phong lưu.
Thanh nhàn ngâm một vài câu,
Biết đâu ấm lạnh, biết đâu ngọt bùi.
Để cho đó gẫm mà coi.
NỢ PHONG LƯU
Cõi trần thế nhân sinh là khách cả(1)
Nợ phong lưu kẻ giả có người vay
Trong trần ai(2), ai biết ai hay
Làm ra đấng phi thường cho rõ mặt
Quân tử dụng tâm vô đố tật
Trượng phu xử thế hữu kinh quyền(3)
Bất vưu nhân, bất oán thiên (4)
Ba vạn sáu nghìn ngày thích chí
Năm ba chén trà nhân rượu trí(5)
Một vài câu thơ thánh phú thần
Nhởn nhơ trong cõi hồng trần
Gặp ngày chung đỉnh đai cân (6)cũng vừa
Thảnh thơi bầu rượu túi thơ.
(1) Cõi trần thế nhân sinh là khách cả: Người ta ở cõi đời, đều là khách qua đường cả
(2) Trần ai: Cõi đời bụi bặm, chỉ lúc hàn vi
(3) Quân tử dụng tâm vô đố tật, Trượng phu xử thế hữu kinh quyền: Người quân tử dụng tâm không ghét ai, kẻ trượng phu ở đời có kinh có quyền (kinh: theo lẽ thường, quyền: theo lẽ biến)
(4) Bất vưu nhân, bất oán thiên: Chẳng trách người cũng chẳng oán trời
(5) Trà nhân rượu trí: Trong sách Luận ngữ, Khổng tử viết: Nhân giả nhạo sơn, trí giả nhạo thủy (người nhân thích núi, người trí thích nước)
(6) Chung đỉnh đai cân: Chung là cái chuông, ngày xưa nhà quyền quý dùng chuông để báo hiệu khách về ăn cơm. Đỉnh là cái vạc để nấu. Đai: các đại thần thắt ở ngoài áo. Cân: khăn bằng lụa chít đầu để đội mũ cho vững
TANG BỒNG LÀ NỢ
Tang bồng là nợ,
Đấng làm trai chi sợ áng công danh
Phú quý tương dĩ hậu ngô sinh, bần tiện tương dĩ ngọc ngô thành.
Cái vinh, cái nhục là đắp đổi
Thuỳ năng thế thượng vong danh lợi
Tiện thị nhân gian nhất hoá công
Thôi thời thôi quân tử cố cùng
Cùng khi ấy hẳn là thông khi khác
Số tảo vãn tuỳ cơ phó thác
Chớ như ai chịu chắt cũng tay không
Chơi cho phỉ chí tang bồng.
THOÁT VÒNG DANH LỢI
Chen chúc lợi danh đà chán ngắt,
Cúc tùng phong nguyệt mới vui sao.
Đám phồn hoa trót bước chân vào,
Sực nghĩ lại giật mình bao kể xiết.
Quá giả vãng nhi bất thuyết,
Cái hình hài làm thiệt cái thân chi.
Cuộc đời thử gẫm mà suy,
Bạn tùng cúc xưa kia là cố cựu.
Hẹn với lợi danh ba chén rượu,
Vui cùng phong nguyệt một bầu thơ,
Chuyện cổ kim so sánh tựa bàn cờ,
Riêng vui thú giang sơn phong nguyệt.
Mặc xa mã thị thành không dám biết,
Thú yên hà trời đất để riêng ta.
Nào ai, ai biết chăng là?
THÍCH CHÍ NGAO DU
Ngâm cùng giăng gió vài câu kiểng,
Tính với giang sơn mấy chuyện đời.
Thú gì hơn nữa thú ăn chơi,
Chi giàu khó, sang hèn là phận cả.
Ðủ lếu láo với người thiên hạ,
Tính đã quen đài các mấy lâu.
Ðàn một cung, cờ một cuộc, thơ một túi, rượu một bầu,
Khi đắc chí ngao du, ờ cũng phải!
Ðạo thông thiên địa hữu hình ngoại,
Tứ nhập phong vân biến thái trung.
Hỏi giang sơn mấy kẻ anh hùng,
Tri ngã giả, bất tri ngã giả.
Người có biết ta, hay thì chớ,
Chẳng biết ta, ta vẫn là ta.
Linh khâm bảo hợp thái hoà,
Sạch không trần luỵ ấy là thần tiên.
Ngang tàng lạc ngã tính thiên.
TRÒ ĐỜI
Một lưng một vốc kém chi mô,
Cho biết chanh chua khế cũng chua.
Ðã chắc bữa trưa chừa bữa tối,
Mà tham con giếc tiếc con rô.
Trăm điều đổ tội cho nhà oản,
Nhiều sãi không ai đóng cửa chùa.
Khó bó cái khôn còn nói khéo,
Dầu ai có quấy vấy nên hồ.
TỰ THUẬT 1
Hai mươi năm lẻ những mơ màng
Cuộc thế xem qua đã chán chường
Lúc đạt chẳng qua nhờ vận mệnh
Khi cùng chớ cậy có văn chương
Theo thời cũng rắp tìm nghề khác
Bẩm tính đà quen giữ nết ương
Thời thế, rủi may, thời cũng mặc:
Ai dư nước mắt khóc giàu sang
TỰ THUẬT 4
Chẳng lợi danh chi lại hoá hay,
Chẳng ai phiền luỵ chẳng ai rầy.
Ngoài vòng cương toả chân cao thấp,
Trong thú yên hà mặt tỉnh say.
Liếc mắt coi chơi người lớn bé,
Vểnh râu bàn những chuyện xưa nay.
Của trờì trăng gió kho vô tận,
Cầm hạc tiêu dao đất nước này.
TƯƠNG TƯ
Tương tư không biết cái làm sao?
Muốn vẽ mà chơi, vẽ được nào!
Khi đứng khi ngồi khi nói chuyện
Lúc say lúc tỉnh lúc chiêm bao
Trăng soi trước mặt, ngờ chân bước
Gió thổi bên tai, ngỡ miệng chào
Một nước một non, người một ngả
Tương tư không biết cái làm sao?
VỊNH CÂY THÔNG
Ngồi buồn mà trách ông xanh
Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười
Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo
Giữa trời vách đá cheo leo
Ai mà chịu rét thời trèo với thông
VỊNH CẢNH NGHÈO
Chẳng phải rằng ngây, chẳng phải đần
Bởi vì nhà khó hóa bần thần
Mấy đời thầy kiện mà thua mẹo
Nghĩ phận thằng cùng phải biết thân
Số khá, bĩ rồi thời lại thái
Cơ thường, đông hết hẳn sang xuân
Giời đâu riêng khó cho ta mãi
Vinh nhục dù ai cũng một lần
VỊNH MÙA ĐÔNG
Nghĩ lại thì trời vốn cũng sòng,
Chẳng vì rét mướt bỏ mùa đông.
Mây về ngàn Hống đen như mực,
Gió lọt rèm thưa lạnh tựa đồng.
Cảo mực hơi may ngòi bút rít,
Phím loan cưởi nhuộm sợi tơ chùng.
Bốn mùa ví những xuân đi cả,
Góc núi ai hay sức lão tùng.
VỊNH MÙA THU
Trời thu phảng phất gió chiều,
Mây về Ngàn Hống buồm treo ráng vàng.
Sang thu tiết hơi may hiu hắt,
Cụm sen già lã chã phai hương.
Sương giày giậu trúc đóa hoa vàng,
Son nhuộm non đào cành lá đỏ.
Lãnh vũ như ti trùng chức dạ,
Tình thiên tác chỉ nhạn thư không.
Phúc đâu đâu một trận hảo phong,
Trên cung Quảnh xa đưa hương quế.
Giời biếc biếc, nước xanh xanh một vẻ,
Khéo hoá công khéo vẽ nên đồ.
Một năm được mấy mùa thu.
VỊNH NHÂN SINH
Ôi, nhân sinh là thế ấy,
Như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao.
Ba mươi năm hưởng thụ biết chừng nào,
Vừa tỉnh giấc nồi kê chửa chín.
Vật thái mạc cùng vân biến ảo,
Thế đồ vô lự thuỷ danh hư.
Cái hình hài đã chắc thiệt chưa?
Mà lẽo đẽo khóc sầu rứa mãi!
Trời đất hễ có hình là có hoại,
Ỷ chi chi mà chắc cái chi chi.
Cuộc làm vui liệu phải kịp thì,
Khi đắc chí lại có khi thất chí.
Trông gương đó hãy suy cho kỹ,
Dẫu xưa nay nào có trừ ai;
Có tài mà cậy chi tài!