WILLIAM WORDSWORTH HAY LÀ TRIẾT HỌC XANH
-1-
William Wordsworth là một người cô đơn. Nỗi cô đơn này không do số phận gây ra. Ông không gặp những cú sốc, không bị hiểu nhầm, không bị đầy đọa, không bị xua đuổi. Ông sinh ra để cô đơn, và sự cô đơn này con người, đàn bà, bạn bè, cộng đồng không giải tỏa được.
Chưa bao giờ ông biết đồng cảm với các mối quan hệ cũng như mối liên hệ họ hàng với thực thể người, sự hòa hợp làm một trong thiện cảm, trong tình yêu, tình bạn với con người có nghĩa là gì, ông không biết. Cảm xúc tập thể không chạm vào trái tim ông.
Chỉ khi đi vào rừng, ngồi lên mỏm đá trên vách núi, khi dạo chơi bên dòng sông, hay ngắm bầu trời sao, lúc đó ông mới thư thái- và chỉ nhận ra sự cô đơn đồng cảnh của mình trong cây lá, núi đồi, sông nước và mây trời. Sự ngây ngất trước thiên nhiên là khả năng duy nhất dành cho ông, để ông có thể hòa mình với một loại cộng đồng nào đấy, để cuộc sống của ông tiếp xúc với một cuộc sống nào đấy.
Ông tồn tại, như một lần đã viết lên một thân cây: „ Tôi đứng một mình trong bóng tối của đêm.” – ông đứng một mình giữa sự cô đơn riêng của ông.
Cộng đồng người, tôn giáo, tình yêu đều không phá vỡ nổi nỗi cô đơn này; có vẻ như ông chưa hoàn toàn là con người. Không phải một linh hồn người. Ông còn lâu đời hơn cả con người. Ông từ một giai đoạn, khi linh hồn chưa nhận biết về cuộc sống cộng đồng, về khả năng các quan hệ con người. Những mối quan hệ, những sự đam mê, sự quyến rũ chưa gắn với đàn bà, trẻ em, mà gắn với cây cối, đá sỏi, với các nguồn nước, với chim muông và với các vì sao.
Thậm chí, dường như thuở đó chưa có cả các mối quan hệ, chỉ có sự cô đơn. Như thể chưa hề có linh hồn người, chưa hề có cá nhân, nên ông không biết gắn mình với cá nhân con người. Khi ông tìm kiếm sự tiếp xúc, không với con người mà ông tìm từ một hiện thực giống ông, một hiện thực không có cá nhân con người.
Sự say mê thiên nhiên của Wordsworth không phải khát vọng-thời hoàng kim, không phải sự chạy trốn trước thế giới con người, không phải sự giải phóng những cảm xúc bế tắc hoặc bị dồn nén.
Khi hướng về thiên nhiên, không ai hướng về cái Tôi con người, mà hướng về một cái Tôi cổ xưa và sâu thẳm hơn rất nhiều. Không phải cái linh hồn-tinh thần, cái linh hồn- tâm lý, hoặc cái linh hồn-vật chất là thứ ngây ngất ông tìm thấy trong cây cỏ, nguồn nước, trong sỏi đá và các vì sao.
Có linh hồn, một thứ sâu sắc hơn tinh thần, sâu đậm hơn cuộc sống, sâu thẳm hơn đất. Đấy chính là LINH HỒN ĐẦU TIÊN. Không thể nhận ra nó từ những thứ sau đó mới xuất hiện: hình thức, sự chuyển động, các bộ phận, cuộc sống, các con vật, con người. Đối với nó sự tồn tại của khoáng chất cũng là phức tạp, nặng nề và trừu tượng: nó quá cao. Quá tinh tế. Nó còn sâu hơn cả đá.
Sau linh hồn đầu tiên tiếp đến linh hồn thứ hai, thứ ba, thứ năm, thứ hai mươi- linh hồn-trầm tích cổ, linh hồn lá mục, linh hồn cây cỏ, linh hồn nước, linh hồn máu, linh hồn tinh thần. Chúng ta có nhiều loại linh hồn, như có bấy nhiêu thực thể, một giọt trong nước, như có bấy nhiêu vì sao trên dải Ngân hà.
Cái đầu tiên vượt lên tất cả. Đấy là cái ĐẦU TIÊN. Cái đầu tiên là cái đơn giản nhất. LINH HỒN CỔ XƯA. Có MỘT. Nó sâu vô tận, đơn giản vô tận, câm lặng, tối sẫm, cực kỳ bình thản và cô đơn tuyệt đối.
Đối với LINH HỒN ĐẦU TIÊN thiên nhiên là thế giới cao nhất, mà nó còn hiểu được. Nhưng nó tự hiểu, và hình dung giống như là nó. Như thể thiên nhiên không có nhiều, chỉ có MỘT. Như thể thiên nhiên không phải cái bên ngoài, mà là bên trong. Như thể thiên nhiên không phải cảnh vật, mà là một THỰC THỂ. THỰC THỂ LỚN. THỰC THỂ LỚN không đàn bà, cũng chẳng đàn ông.
LINH HỒN ĐẦU TIÊN không biết về đàn ông và về đàn bà. Trong nó tất cả là MỘT. Đàn ông và đàn bà trong một, nhưng không phải hai tan ra thành một, mà như thể chưa tan ra. LINH HỒN ĐẦU TIÊN mang giới tính cổ.
Sự cô đơn của thi phẩm Wordsworth: là sự cô đơn của LINH HỒN ĐẦU TIÊN mang giới tính cổ xưa.
-2-
Thật ra, trong cái vô hình, tất cả đều gắn bó với nhau.
Con người trên những lối mòn dạo chơi cô đơn kiểu Wordsworth, trong rừng, trên bờ biển, một mình, giữa những triền núi, dưới bầu trời sao, vui vầy một cách vô tư với ý tưởng này, và nói: nếu đúng như vậy, tại sao tháng và màu sắc không thể gắn bó với nhau?
Tháng Ba màu nâu, tháng Tư màu xanh dương, tháng Năm chắc chắn màu xanh non, tháng Sáu màu đỏ, tháng Bảy màu đỏ ối, tháng Tám màu vàng, và tháng Chín màu hoàng kim. Nhưng màu sắc cũng gắn bó với âm thanh. Tháng Năm không chỉ xanh non mà còn là g-moll. Tháng Bảy không chỉ đỏ ối mà còn là cisz-moll. Thật đặc biệt. Nhỉ?
Sau đó đến những ý nghĩ sau đây: cách đây hai mươi năm bỗng ngày nọ qua ngày kia đột nhiên trên các con phố người ta mở các hiệu bán đồ ngọt, và đôi khi không chỉ một. Con người đua nhau mua đường, kẹo bonbon, socola, phần lớn là rẻ, vì thế là thứ kém phẩm chất và thành đồ ăn vặt ngơ ngẩn. Cùng lúc ấy, có thể nhận ra so với con người của những thời kỳ trước, số đông bắt đầu hay nói dối.
Mãi sau này mới có những cuốn sách nói về mối quan hệ này. Người ta nhận ra mối liên hệ, và nghiên cứu xem cái gì ẩn náu trong đó. Từ cơ sở kiến thức tâm linh nói về sự giống nhau có thể thấy rằng, ở đây đường và sự dối trá có liên hệ với nhau.
Tất nhiên cần phải vào những cái hiệu nhỏ, nếm tất cả các loại đường, kẹo bonbon, cả loại rẻ, loại tin được, loại đắt và loại ngon miệng, cần phải trải qua cảm giác ngon lành đặc thù, mà sự nếm náp này mang lại- nhưng quan trọng là cần nhận ra mối quan hệ tiếp theo và không thể phủ nhận được, trong việc người ta ăn kẹo bonbon và một sự bắt buộc không cưỡng lại được của sự dối trá nổi lên trong lòng.
Điều này không phải về vị ngọt của nó. Rượu, hoa quả, mật ong cũng ngọt. Nhưng cái ngọt của đường về cơ bản khác hẳn. Hoa quả, mật ong ngọt một cách bình thản, dịu dàng, tươi tỉnh và vô tội. Bởi chính chúng là như thế. Nhưng đường thì không.
Có một cái gì đó trắng trợn nắm bắt được trong đó, một cái gì kích thích, thậm chí hỗn xược. Ai ăn đường, người đó ăn một xu hướng thích dối trá; kẻ dối trá, thích đi đường phụ, thích chọn những ý nghĩ quanh co, phủ nhận, dấu diếm, cố tình quên, ru ngủ, đánh lạc hướng. Đi đâu?- Cái thế giới mà đường mê hoặc, không có.
Nhưng mối liên hệ thực sự của nó không phải cái đó. Mà ở sâu hơn. Vô hình. Tính chất của đường, là biến mất: như thể. Hoàn toàn chỉ hình như, trơn chu, nhẹ nhõm, một sự tan ra tuồn tuột, cảm giác choáng váng vỗ về.
Sự giả dối cũng gây bẩn, y như đường. Một cách ngọt ngào, chậm rãi, vỗ về, không để ý, từ đằng sau. Nó làm rỗng đi, bởi mong muốn con đường dễ dàng hơn, nó lựa chọn, và cho đi; nó làm người ta ngấy, làm hỏng, làm lười biếng.
Đấy là sự tương đồng tâm linh giữa đường và sự giả dối. Sự giả dối mỉm cười, như đường, và bộ mặt của đường, giống như sự giả dối, bảo lãnh một sự giải phóng dễ dãi. Sự giả dối nổi lên và bộc lộ trong những điều bí mật, thoạt nhìn có vẻ cứu con người khỏi sự rắc rối, nhưng thực tế nhấn người ta xuống bùn, chìm vào sự mềm mại của nó, như đường.
-3-
Wordsworth là nhà thơ triết học. Ông nói: „Thi ca là thứ mang tính triết học nhất trong mọi thể loại viết”. Và: poetry is the first and last of all knowledge – Thi ca là mở đầu và kết thúc của mọi tri thức.
Triết học này là gì?
Triết học của Wordsworth: triết học xanh.
Khi đường và sự dối trá có liên quan đến nhau, vậy cần phải nói cho mọi người hiểu rằng màu xanh non, tháng Năm và g-moll có liên quan thế nào với nhau. Xanh non không chỉ là màu, g-moll không chỉ là âm thanh và tháng Năm không chỉ là tháng.
Đây là một cái gì, nằm trong mọi sự vật, trong cá nhân và trong ý nghĩa của thế gian, một cái gì xanh non và g-moll, một cái gì tháng Năm: hơi trần trụi, nhưng trong trẻo và tự do, như tiếng vọng từ đỉnh núi, như nước suối trong vắt ngoằn ngoèo bên những triền đá, một cái gì trong suốt và lấp lánh, như hơi thở ban mai, như tiếng chim véo von tháng Ba, trong sáng, giòn tan, lóng lánh và ẩm ướt.
Một cái gì hiện hữu trong thế gian, như màu sắc ẩn trong tia sáng mặt trời. Chỉ khi tia sáng gẫy, màu sắc vụn ra. Chỉ khi con người chăm chú, mới nhìn thấy hiện thực xanh non.
Luôn luôn hiện hữu và có trong tất cả: âm thanh, màu sắc chỉ là dấu hiệu hiếm hoi của hiện thực xanh non vĩnh cửu và thiêng liêng- nó ẩn sâu thẳm trong gốc rễ của sự vật, ở cội nguồn, nơi có hiện thực tâm linh tương cảnh.
Khoa chiêm tinh học, kiến thức mới sống dậy của phương Đông xa xưa rất am tường về sự tương đồng tâm linh.
Theo ngành khoa học này hiện thực xanh non tồn tại dưới sự trị vì của sao Vệ nữ. Ngày của nó là thứ sáu; số của nó là 6; kim loại của nó là đồng; đặc tính của nó là cảm xúc; thời gian của nó từ năm 10 đến năm 14. Ở các bộ phận cơ thể con người nó là ngực, là bộ phận sinh dục, là máu, là sự ẩm ướt.
Người- Vệ nữ thích sống dưới những triền đồi hoặc trong các nhà vườn rậm rạp. Những người-Vệ nữ thường là nghệ sĩ, vũ nữ, buôn thời trang, người đi săn; đá quý của nó là ngọc, san hô và ngọc đỏ; các con vật của nó là ong, bướm, bồ câu, con công, con dê; cây của nó là cây sim, cây vả, hoa hồng, hoa huệ; đặc tính của nó: nữ tính, quyến rũ một cách lạnh lùng.
Nhưng, đây là một tri thức khác hẳn hoàn toàn với khoa học tự nhiên. Và mối liên hệ của nó cũng hoàn toàn khác biệt. Chỉ là sự tương đồng linh hồn giữa con số, ngày, cây cỏ, thú vật, tính chất và các bộ phận cơ thể.
Khoa học châu Âu cho rằng thiên nhiên là thứ tự vô tận của những nhân tố đã được suy luận hợp lý. Thật là một quan niệm ấu trĩ. Đằng sau thứ tự vô tận ấy không có gì hết. Hay đúng hơn đằng sau thiên nhiên là KHÔNG CÓ GÌ.
Thuyết tâm linh nhìn nhận khác. Thiên nhiên là hằng hà sa số những thực thể. Và thực thể sống ở đằng sau người làm cho sự sống ấy trỗi dậy.
Đằng sau các hiện tượng là LINH HỒN TẠO HÓA, trị vì tại điểm giữa của thế gian, và vô hình, chỉ trong các tác phẩm mới nắm bắt được.
Với châu Âu khoa học tự nhiên, thiên nhiên chỉ là một hệ thống máy móc, đằng sau nó KHÔNG CÓ GÌ ẩn náu. Với thuyết tâm linh, thiên nhiên là thế giới của những thực thể sống, đằng sau nó là TẠO HÓA.
Nhưng nếu ai tin rằng, thuyết tâm linh là đối ngược của chủ nghĩa duy lý, người đó đã hiểu sai hoàn toàn. Tuyệt đối không phải như vậy.
Thuyết tâm linh là một tri thức nhìn thấy sự thống nhất của mọi sự vật, trong khi khoa học không nhìn thấy. Mọi sự vật đều là một: kể cả cái có sự sống, kể cả cái máy móc. Chính vì thế nó là tâm linh.
Nó nhìn thấy điểm giữa, nơi từ sự sống thành cái máy móc, từ cái máy móc sẽ biến thành sự sống, nó nhìn thấy tâm điểm và THỰC THỂ, thấy TẠO HÓA, làm ra từ sự sống cái máy móc, và từ cái máy móc ra sự sống.
Bởi vậy thuyết tâm linh không phải sự đối ngược với khoa học: thuyết tâm linh là mức độ cao hơn của tri thức. Rất có thể con người sẽ đạt đến mức cao nhất của tâm linh.
-4-
Thiên nhiên kiểu Wordsworth là thiên nhiên xanh, thứ xanh non tâm linh đã thấm đẫm trong sự vật. Wordsworth viết về thiên nhiên nước Anh. Nếu ông nói về phong cảnh nước nước Pháp, cũng vẫn là nước Anh, bởi chất tự nhiên của thiên nhiên trong ông là nước Anh. Đấy là một màu xanh non nhất định.
Trong những thi phẩm lớn luôn luôn có màu sắc, âm thanh, có một bản năng không lý giải được nằm sâu thẳm trong đó. Những triết lý trong đó có thể mang màu tía đỏ, màu xanh biếc, màu vàng, màu trắng.
Thi phẩm của Wordsworth xanh non như ý nghĩa một câu nói của Goethe: màu xanh non là màu ít tính người nhất, nó nằm rất xa thế giới con người, và màu sắc này có thể tiêu hóa con người.
Màu xanh kiểu Wordsworth là màu xanh non của đảo nước Anh, những cây cổ thụ, những bụi xanh rậm rạp, những lùm cây, đồng cỏ, công viên, những thảm cỏ dày, là màu sắc g- moll nước Anh ẩm ướt tỏa ra từ không khí luôn luôn đầy hơi nước. Nước Anh là nơi lý tưởng để ai muốn chiêm ngưỡng một hiện thực xanh non.
Sự tồn tại của các phần tố là một giới tính của cảm giác cháy.
Thiên nhiên kiểu Wordsworth là một cảm giác cháy như thế, một sự bốc lửa xanh, ngọn lửa xanh non ngùn ngụt, màu xanh cháy bỏng và sôi sùng sục. Như Schuler viết: Urfyr- Úr- Feuer- nghĩa là ngọn lửa cổ, là ngọn lửa cháy trong các đám cỏ.
Phút giây này, khi trên trái đất cổ, mới chỉ là đá xám xịt, không là gì khác, và trên biển cổ, thứ nhợt nhạt không màu, sự sống nhóm lửa, đá xám bén lửa từ những tảng rêu đầu tiên, và biển không màu từ những đầm lầy đầu tiên bắt đầu cháy lên.
Đấy là lửa của SỰ SỐNG ĐẦU TIÊN. Ngọn lửa đầu tiên, ngọn lửa màu xanh- Urfyr. Và màu xanh non là màu đầu tiên trên trái đất, nên sinh vật, thực thể đầu tiên trên trái đất, thực thể sơ khai nhất, đơn giản nhất, xanh non, thực thể- tháng Năm, thực thể lạnh lẽo, đơn độc, trơ trụi. Thực thể này là: titán.
Một cuốn sách lớn của tương tác tâm linh là cuốn Tử Thư Tây tạng (Bardo-Tödol) cuốn Tạng Thư Sống-Chết đã nói rằng màu xanh non là màu của bản năng quyền lực. Là màu đầu tiên, cơ bản, hoang dã, nguyên thủy, nguyên vẹn, không thể phá vỡ nổi và đậm đặc, không thể dạy dỗ và không thể thuần phục được.Nó sâu đậm hơn mọi tri thức, sâu đậm hơn mọi cảm xúc, nó là sự cứng rắn phi thường, là bản năng, là sự khăng khăng, là cái đơn giản sơ khai nhất.
Màu xanh non có liên quan đến LINH HỒN ĐẦU TIÊN, và LINH HỒN ĐẦU TIÊN với SỰ SỐNG ĐẦU TIÊN.
Và SỰ SỐNG ĐẦU TIÊN này chính là THỰC THỂ XANH nổ tung cùng những đám rêu và những đầm lầy sơ khai nhất, một thứ màu trong toàn bộ sự sống chưa nhận biết cái gì hết, chưa nhận biết đàn ông, đàn bà, sự thiện cảm, sự căm ghét, mối quan hệ, cộng đồng, chưa nhận biết về bất kỳ điều gì, chưa hiểu gì, không có, chưa thể có cảm xúc, dục vọng, ý nghĩ, chỉ là một bản năng quyền lực cơ bản, mơ hồ- là CÁI TÔI, đấy là titan. Màu xanh non là màu titan.
Khi con người nghe thấy từ titan, người ta nghĩ đến kẻ khổng lồ thần thoại. Những kẻ tìm ra quả đất trước khi có sự xuất hiện của các vị thần. Bởi vì thần thoại cũng biết rằng, chúng là những thực thể đầu tiên trên quả đất. Rồi sau đó, các vị thần được sinh ra, chiến tranh bắt đầu xảy ra giữa các vị thần và titan. Các vị thần chiến thắng, họ xích các titan xuống dưới lòng đất.
Tất nhiên thần thoại chưa bao giờ là cổ tích.
Nó có ý nghĩa sau đây: sau LINH HỒN ĐẦU TIÊN các linh hồn khác được tiếp tục sinh ra, và chiến tranh bắt buộc phải xảy ra giữa chúng. Tại sao? Các titan giao chiến. Tại sao lại là họ? Bởi họ là bản năng quyền lực, và bản năng quyền lực kêu gọi chiến tranh. Các linh hồn thần thánh chiến thắng titan, và trói xiềng chúng vào lòng đất, ấn chúng vào màn đêm tăm tối. Cái ngày nay người ta gọi là sự vô thức.
Và tất cả chúng ta đều mang trong mình một gã khổng lồ bị xích, một titan rơi xuống và bị giam cầm trong vô thức. Bởi tất cả chúng ta đều giữ gìn trong bản thân mình bản năng quyền lực sơ khai không thể khuất phục nổi của LINH HỒN ĐẦU TIÊN.
Bởi vậy tất cả mọi người giữa chúng ta, tự bản thân họ, một cách trực tiếp, từ chính bản thân nhận ra THỰC THỂ XANH, kẻ đến đây cùng rong rêu, và là kẻ đầu tiên giữa bao nhiêu kẻ, tên khổng lồ dậm chân và thở hổn hển trong sâu thẳm, nguyền rủa và lay chuyển dây xiềng xích.
Tất cả mọi người đều biết có titan, bị chôn sống dưới lòng đất, những thực thể- tháng Năm đơn giản, những kẻ giống như tiếng hú từ trên đỉnh núi, những thực thể trần trụi, lạnh lẽo và đơn độc, những kẻ xuất hiện từ buổi sơ khai ban đầu, khi tất cả chỉ là MỘT- những LINH HỒN ĐẦU TIÊN mang giới tính cổ xưa.
Tri thức Ai cập cổ và từ đó sản sinh ra mật tông (hermetikus) truyền thống, cùng thuật Luyện kim (alkimia) đều biết đến thực thể titan và màu xanh non này.
Người ta gọi Prima Materia là CON SƯ TỬ XANH. Đấy là con người thiên nhiên, kẻ không là gì khác, chỉ là thiên nhiên, là vật chất nguyên thủy nhất của con người phát triển, con người tinh thần, con người thượng đế. CON SƯ TỬ XANH là vật chất cổ của con người thượng đế.
Cùng lúc xanh non là màu của LINH HỒN THIÊNG LIÊNG. Điều này có nghĩa là gì, không một ai biết.
Có thể nhắc đến những liên hệ xa xôi, nhưng lúc này chẳng dùng vào mục đích gì. Ai tò mò, hãy tìm tác phẩm chương viết về bộ quần áo XANH trong tác phẩm của San Juan de la Cruz, rút ra bài học từ đấy, và đến gần hơn với những nhóm màu xanh. Jakob Böhme cũng nói về điều này trong Morgenröte .
Tác giả viết, sự ra đời của thiên nhiên diễn ra không dễ dàng và nhẹ nhõm…không thiêng liêng và cũng chẳng trong sạch như chúng ta tưởng…
Trong thiên nhiên luôn có cơn giận giữ của Thượng đế với màu xanh non, giống như ngọn lửa địa ngục: der Zorn Gottes ohn Unterlass grünet Gleich dem höllichen Feuer.
-5-
Thiên nhiên của Wordsworth là thiên nhiên xanh non, là thế giới của LINH HỒN ĐẦU TIÊN, thế giới titan. Nếu con người đọc thi phẩm của linh hồn titan này, đôi khi không cưỡng lại được cảm giác buộc phải tin: titan đem lòng yêu thiên nhiên. Đúng thế.
Thực thể này cần phải yêu nữ hoàng xanh, thần Vệ nữ, chính là thiên nhiên. Nếu một người nào đấy muốn nắm bắt được phần tinh túy nhất, sâu thẳm nhất của linh hồn titan, cần phải biết: đấy chính là tình yêu thiên nhiên. Những linh hồn titan thờ phụng thiên nhiên, phải lòng thiên nhiên. Đấy là tình yêu không thể giãi bày hết với thiên nhiên, đi kèm với toàn bộ hậu quả của cái cao quý, lớn lao, của cái khủng khiếp và cái rùng rợn. Đấy là điều thi phẩm Wordsworth phản ánh.
Bởi vậy nó cắt đứt với con người, trong đó không có tình bạn, tình yêu, sự chia xẻ, sự hy sinh, sự thông cảm. Titan không là gì khác ngoài việc phải lòng thiên nhiên.
Một cách định mệnh, mù lòa, như một linh hồn titan không thể khác ngoài mù lòa và định mệnh.Titan là thực thể cực kỳ và cao cả, cùng lúc cũng là thứ vô lương tâm. Vừa giống các vị thần vừa là quái vật. Hoàn toàn chỉ có sự cao cả, cái đẹp, sức mạnh và sự tàn ác. Đấy cũng là tình yêu thiên nhiên, là thi phẩm của Wordsworth: triết học xanh.
Nhưng điều này không đúng. Ít nhất không như ngay khoảnh khắc đầu tiên người ta tưởng thế. Tại sao? Bởi vì LINH HỒN ĐẦU TIÊN, THỰC THỂ XANH chưa biết đến, tình yêu là cái gì. LINH HỒN ĐẦU TIÊN mang giới tính cổ.
Tất cả những gì nó đã trải qua, nó đều giữ trong nó và chịu đựng. Nó chưa hướng ra phía ngoài. Nó chưa nhận biết về giới tính khác, bởi vì lúc đó chưa có giới tính khác. Cả hai giới tính có trong nó, trong giới tính cổ cả hai giới tính lớn lên cùng nhau. Giới tính cổ không phải là một đàn ông cộng một đàn bà, tuyệt đối không hợp cùng hai nửa đã bị tách; vì nó sẽ thành hai giới tính. Giới tính cổ chưa đạt đến chỗ biết về hai giới tính và nhận biết tình yêu.
Linh hồn titan không phải lòng thiên nhiên, nó không yêu thiên nhiên, không căm thù, không đánh nhau với thiên nhiên cũng chẳng ngưỡng mộ. Thiên nhiên đối với nó là khả năng đầu tiên của sự hiện diện. Tận cùng nhiều hơn, so với tất cả mọi tình yêu và tình thương yêu. Nhiều hơn cả tư tưởng, ý chí, sự hoạt động, sức mạnh hành động, tinh thần cùng dục vọng. Đối với titan thiên nhiên là thức ăn, là sự ngây ngất, là chiến lợi phẩm, là cuộc phiêu lưu. Và còn hơn thế nữa.
Thiên nhiên đối với LINH HỒN ĐẦU TIÊN: là niềm hạnh phúc. Hạnh phúc như thể điều này ở bên trong nó, đặc quánh và thơm ngào ngạt như mật ong, tan ra trong nụ cười. Niềm hạnh phúc như thể có cùng tình yêu, rượu, cái hôn, sự đê mê, ánh sáng, cái đẹp và sự chiến thắng. Bất kỳ linh hồn khác nào đều không nhận thức được cảm xúc trên cả cảm xúc này. Bởi cảm xúc này nhiều hơn cả cảm xúc. Đấy là: sự tồn tại.
Chắc chắn các vị thần sinh ra sự tồn tại này. Niềm hạnh phúc tan ra trong nụ cười và thơm ngào ngạt như mật ong này là mẹ của các vị thần. Khi các vị thần được sinh ra họ lập tức ghen tị với cái cảm xúc trên cả cảm xúc này của LINH HỒN ĐẦU TIÊN. Họ ghen tị và muốn dành lấy toàn bộ cho họ. Họ không hiểu, không ai có thể muốn mẹ một cách không bị trừng phạt.
Các vị thần chiến thắng titan, nhưng họ không nhận được niềm hạnh phúc. Niềm hạnh phúc cũng trôi qua, chìm xuống, nơi có các titan: dưới lòng đất. Từ thi phẩm của Wordsworth có thể đọc thấy tất cả những điều này, như đọc chữ từ giấy. Trong bài thơ Intimations of Immortality không là gì khác ngoài một thi phẩm của niềm hạnh phúc CỔ, thông qua thuở ấu thơ trở lại với LINH HỒN ĐẦU TIÊN.
Và từ đây đột nhiên ta chợt hiểu, những năm tháng đầy lo toan của ta chỉ là vài khoảnh khắc trong nỗi im lặng vĩnh cửu, và tại đây ta đạt đến một nơi sâu thẳm mà nước mắt không bao giờ có thể rơi tới. Những lo toan tan biến vào cái im lặng vĩnh cửu, từ nơi sâu thẳm, buổi ban đầu cổ xưa, ta không nhận ra cái gì khác ngoài sự tồn tại thơm ngào ngạt của mật ong tan chảy.
-6-
Cái cô đơn kiểu Wordsworth là cái cô đơn của thực thể cổ trên quả đất. Nó không gặp gỡ, không tìm kiếm, không quen biết mối quan hệ với thế giới con người.
LINH HỒN ĐẦU TIÊN chưa quen biết con người. Nó không biết sự hợp tác là gì, cộng đồng là gì, sống chung nghĩa là sao, và yêu là cái gì. Nó không có tri thức con người mà có tri thức cổ.
Tri thức cổ là cái gì vậy?
Đấy là không của con người, không của tinh thần, không của vật chất, không của các vị thần, mà của titan. Cô đơn. Xanh non. Nó có nỗi đam mê Xanh, máu xanh, cảm giác xanh, linh hồn xanh. Nó uống say và đi lại, tác động bằng cái xanh non của titan, nó cháy trong ngọn lửa xanh của SỰ SỐNG ĐẦU TIÊN. Đối với nó thế giới cảm xúc của con người xa lạ, xa lạ như tinh thần, thành phố, gia đình, tình bạn. Nó nửa thần, nửa quái vật, là thú vật, cây cỏ, đất và đá, là khí ê ter và biển.
Thi phẩm của Wordsworth là triết học màu xanh. Nhưng nếu đã là triết học thi ca, nó có nghĩa không chỉ một quan điểm.
Trong thi ca luôn luôn có một phép màu tích cực. Không chỉ cái nhìn mà cả mãnh lực nữa. Wordsworth không chỉ mở tung ra và thể hiện, ông còn gieo trồng và thực hiện nữa. Cái gì? Màu xanh non. Thiên tài của thi ca có họ hàng với LINH HỒN ĐẦU TIÊN, trong nó tất cả là MỘT.
Thi sĩ có họ hàng với titan. Tác phẩm và sự hành động nằm trong MỘT. Các nhà thơ và sức mạnh sáng tạo của các titan gần như là thượng đế.
Nhưng sự sáng tạo titan của LINH HỒN ĐẦU TIÊN chính là sự sáng tạo xanh, và phép thuật (magia) của nó là phép thuật xanh.
Tất cả mọi người đều biết, có phép thuật đen của những hành động đen, có phép thuật trắng của những hành động màu trắng. Nhưng có cả phép thuật vàng, đỏ tía, xám, màu hoàng kim, màu tím.
Nhưng phép thuật của LINH HỒN ĐẦU TIÊN sáng tạo ra sự TỒN TẠI ĐẦU TIÊN, cái cô đơn, máu trần trụi và lạnh, sự bùng nổ khai sơ đầu tiên của sự sống, thế giới g-moll tháng Năm của titan, thế giới xanh non. Đấy cũng chính là thế giới của Wordsworth.
-7-
Nhiều lần chúng ta nói đến thuyết tâm linh (misztika) và phép thuật (magia). Con người hiểu như thế nào đấy hai từ ngữ này hòa làm một bằng cách nào, và tách ra bằng cách nào: như thế nào là một, như thế nào là hai. Và : hai, còn có thể hiểu được, nhưng: một, ít người hiểu.
Thuyết tâm linh nhất thiết là một quan sát đã trải. Cái đặc trưng cho nó, không chỉ là sự gắn bó của một quan sát với cái đã từng trải, mà sự quan sát đã trải qua này cùng lúc còn diễn tả một cái gì đó. Con người làm quen với khái niệm tâm linh, khi nhận ra mối quan hệ giữa những hiện tượng nhìn thấy được và những hiện tượng không nhìn thấy được. Par excellence hành vi tâm linh: all things are only emblems – tất cả mọi vật chỉ là tượng trưng.
Còn có một cái gì nhìn ra được của cái khác, sâu sắc hơn, bản chất hơn, bí ẩn hơn, một trải nghiệm, một cảm nhận, một sự thể hiện ra ngoài. Tâm linh từ một mặt khác nhận ra, trải qua và thấu hiểu được cái không nhìn thấy. Mặt không nhìn thấy, mặt vô hình này người ta gọi là tri thức. Bởi tri thức nằm bên trong, dấu kín trong sự vật, ẩn sâu trong hiện tượng.
Con mắt tâm linh nhìn thấy tri thức của hiện thực, nhìn thấy ý nghĩa của hiện tượng, nhìn thấy, đằng sau vật chất là tinh thần, đằng sau thể xác là linh hồn. Nhưng cái nhìn tâm linh có thể nhận ra từ cái khác nữa. Bởi tâm linh không chỉ là nhận ra mà còn là tri thức.
Müsztész nghĩa là đã được thấm đẫm. Đấy là cái gì, cái mà müsztész biết và được thấm đẫm trong cái gì? Biết và được thấm đẫm trong một khả năng biết: TẤT CẢ LÀ MỘT. Con mắt có khả năng tâm linh nhìn thấy một lúc toàn thể thế giới, thống nhất và trong MỘT, ở nơi tất cả là MỘT.
Như vậy nếu ai hỏi tâm linh( misztika) là gì, cần phải trả lời: là khả năng nhìn thấy, trải qua và hiểu được vào sâu thẳm, ẩn dấu đằng sau sự đa dạng vô tận của thế giới, đấy là cái DUY NHẤT MỘT của số nhiều.
Phép thuật (magia) có họ hàng với tâm linh, nhưng vẫn tách biệt. Bởi nếu con người nhìn, hiểu, trải qua, và biết, nhưng vẫn chưa đụng vào sự vật, vẫn chưa thay đổi sự vật. Tâm linh không hành động, chỉ nhìn thấu và biết. Nhưng phép thuật lại chính là sự hành động. Phép thuật cũng hiểu biết như tâm linh, nhưng cùng lúc tham dự luôn vào sự vật, và thay đổi hoặc tạo ra chúng.
Ví dụ không cần nhiều. Ta lấy ngay trường hợp của Leonardo da Vinci. Tất cả mọi người đều có thể lấy cuốn sơ đồ và xem xét, hệ thống cấu tạo xương , các bắp thịt của con người, cấu tạo của động vật và thực vật được vẽ ra toàn bộ chính xác đến mức máy móc, như thể một cái động cơ máy sống động, một máy tưới nước, một cái tàu thủy hoặc một cái nhà.
Trong con mắt, trong sự ngắm nghía và trong bản chất của Leonardo có một cái gì đó có thể mang lại một tên gọi chung cho một động cơ máy hoặc một hệ thống cơ bắp. Ông biết, nhìn thấy, hiểu và trải qua điều nói lên rằng trên thế gian có một nơi mà thực thể sống hữu cơ và phát minh máy móc đều là một.
Leonardo nhìn một cách tâm linh. Từ cái nhìn này giữa cây cỏ, thú vật, đá, máy móc nhân tạo, nhà, con người, tinh thần không có bất kỳ sự khác biệt nào. Tất cả là MỘT. Để một thứ thành máy móc, một thứ thành thực thể sống, là mãi về sau này, tình cờ và nông cạn, đều chỉ là hiện tượng. Nhìn như thể không là MỘT. Nhưng nếu con người nghĩ sâu hơn một chút, sẽ tìm thấy một điểm, nơi cái đầu máy xe lửa và bông hoa, cái máy dệt và con người tan vào làm MỘT.
Leonardo có con mắt tâm linh. Nhưng sự việc chưa dừng ở đây. Bởi Leonardo còn có một đôi tay có phép thuật. Nhưng sự việc cũng vẫn chưa dừng lại ở đây, bởi đôi tay và đôi mắt ở ông là MỘT, và là MỘT từ cái nhìn đến hành động. Tất cả đều là MỘT. Nếu cái MỘT này chỉ nhìn, thấy, và biết, trải qua và hiểu, cái đó gọi là tâm linh; còn nếu cái MỘT này sáng tạo, dựng nên, hành động, làm, người ta gọi là phép thuật.
Chúng ta biết có những con người biết biến những sức mạnh máy móc thành sức mạnh của sự sống, cũng như biến những sức mạnh sống tầm thường thành mang tính máy móc. Bởi vì toàn bộ nền kỹ thuật không là gì khác, ngoài việc chuyển những sức mạnh sống của con người thành sức mạnh dành cho thế giới máy móc. Kỹ thuật: là hành động của con người, nhưng không phải với con người, mà với máy móc. Nhất là ở phương Đông, ngày xưa, các nhà phù thủy làm ngược lại: từ máy móc biến thành thực thể sống, như ngày nay người ta hóa phép sự sống thành máy móc. Tất cả đều phụ thuộc, là con người có đạt được hay không đến vị trí mà sự sống và máy móc là MỘT, hay nói cách khác, nơi tùy theo ý muốn có thể biến sự sống thành máy và máy thành sự sống.
Kẻ có phép thuật là một thực thể có thể chạm vào tận gốc rễ sự vật, và một cách tự do, theo tri thức của họ biến những sức mạnh sống thành cơ khí, hoặc sức mạnh cơ khí thành sức mạnh sống. Phép thuật: có khả năng thực hiện được tư tưởng.
Sau tất cả những điều này, con người cần hiểu: có một THỰC THỂ, mà trong nó tâm linh và phép thuật cũng là một. Là một như cái nhìn và tri thức, sự trải qua và thấu hiểu nhất trí hoàn toàn với hành động, với sự sáng tạo và xây dựng nên. Là một, như khi nó thấy, là đã dựng tạo, và khi nó biết, là đã sáng tạo. Tư tưởng đã được thực hiện.
Đấy là một thực thể, trong nó tất cả là MỘT: THỰC THỂ ĐẦU TIÊN- LINH HỒN ĐẦU TIÊN trong cỗi rễ và xuất thân của mọi sự tồn tại đấy là viên đá, là tri thức, hành động, ý muốn, cuộc sống, sự đam mê đầu tiên. Đấy là THỰC THỂ ĐẦU TIÊN- THỰC THỂ XANH, là titan.
-8-
Một từ to lớn của thế giới con người: tình yêu thương.
Wordsworth là người Anh, trong ngôn ngữ của ông điều này vang lên thật hoàn chỉnh: bởi love, cùng lúc là yêu và yêu thương. Một sự quyến rũ say đắm buộc con người với nhau, giống như Eros của Hy lạp. Eros là nhân tố cơ bản tâm linh của cuộc sống, số phận và hiện thực của tất cả con người ngày nay.
Nếu hai con người cùng với nhau, đấy là định luật của Eros. Và điều tốt nhất dành cho con người: cùng nhau. Thiếu Eros không thể cùng nhau. Những gì to lớn và tốt đẹp trong cuộc sống của con người, gia đình, tình yêu, cộng đồng, quốc gia, nhân loại, đều là món quà của Eros.
Cội rễ của sự sống xanh không phải là Eros. Nó là một từ khác: hạnh phúc. Niềm hạnh phúc không bao giờ chung, không có tính phổ biến, không tập thể. Mỗi người hạnh phúc cho riêng họ cũng như đối với mỗi người: yêu là khác. Bởi vậy hạnh phúc đi kèm với cô đơn, như tình yêu thương đi kèm với cộng đồng. Người cô đơn không biết, yêu nghĩa là gì. Không mong muốn tập thể. Không thích chung sống. Giá trị cuộc sống của nó: niềm hạnh phúc.
Tất nhiên thế giới không chỉ có hai từ này. Bên cạnh TÌNH YÊU THƯƠNG và NIỀM HẠNH PHÚC còn có: TRI THỨC, CÁI ĐẸP, QUYỀN LỰC, HÒA BÌNH, SỰ ĐAM MÊ. Sự tồn tại đầy rẫy những từ ngữ to lớn, như đầy rẫy các linh hồn, và mỗi linh hồn có bản thân từ ngữ to lớn của nó.
LINH HỒN ĐẦU TIÊN sống trong cảm xúc trên cả cảm xúc, trong niềm vui và sự ngây ngất đầu tiên, sơ khai, thứ sâu sắc hơn cả tình yêu thương, sâu sắc hơn cả đam mê; sâu sắc hơn cả tri thức- sâu thẳm đến mức nước mắt không bao giờ rơi xuống đến đó: đấy là niềm HẠNH PHÚC, mà từ đấy các vị thần sinh ra.
Cũng đủ nếu con người nghĩ đến bản giao hưởng số 9 của Bethoven, đến đoản khúc- Niềm vui và Dionysus của Schiller. Cũng đủ nếu con người nghĩ, ngày hôm nay người ta vội vã đổ xô đến sở chứng khoán, nhà hát, hiệu sách, nơi giải trí, thể thao chỉ vì một chút niềm vui. Cũng đủ nếu con người nghĩ, người ta lấy nhau, yêu nhau, kết bạn, đánh nhau, vui chơi vì một giây phút hạnh phúc.
Sự nỗ lực của người hiện đại là niềm vui và niềm hạnh phúc. Tác phẩm Dionysus, đoản khúc-niềm vui và bản giao hưởng số 9 của Bethoven là sự bùng nổ của thiên nhiên titan trong con người. Niềm vui và niềm vui và niềm vui- niềm hạnh phúc, trên tất cả là niềm hạnh phúc: cảm giác cao cả, đông đặc, thẩm thấu có vị ngọt ngào như mật tan ra của sự hiện hữu đầu tiên.
Sự ngây ngất làm MỘT của TẤT CẢ, sự tụ hợp của tất cả nhân tố trên thế giới- Seid umschlungen Millionen – như Schiller đã viết, như âm thanh vang dội của Bethoven, và như Dionysus vượt ra khỏi mọi biên giới kìm hãm tạo nên một TỔNG THỂ VĨ ĐẠI. Niềm vui không là cái gì khác ngoài biến thành MỘT.
Joy for ever.
Younghusband, nhà triết học của niềm hạnh phúc nói: hạnh phúc cơ bản hơn tình yêu thương, bởi vậy nó cũng cao cả hơn, in its highest forms, Happiness surpasses ever Love- hạnh phúc trong hình thức cao nhất nhiều hơn Eros, sâu sắc hơn và cổ kính hơn.
Niềm vui vượt qua sự khoái cảm tầm thường, như vượt qua sự sợ hãi, vượt qua cả sự thông thái và vượt qua cả tình yêu thương. Thực ra không có gì khó hiểu. Một cách như thế nào đấy rõ ràng, TÌNH YÊU THƯƠNG không chỉ là từ ngữ, mà là THỰC THỂ nữa, nữ thần làm cân bằng sự đối chọi, Aphrodité hay Venus, hoặc Sophia hay Urania hoặc Jin.
HẠNH PHÚC không phải đàn bà: như khi nó quá cả sự thông thái, nỗi đam mê, tri thức, tình yêu thương, nó vượt quá cả giới tính luôn. Hạnh phúc là titan, là THỰC THỂ ĐẦU TIÊN, là THỰC THỂ, là LINH HỒN, và vì vậy nó mang giới tính cổ. Hạnh phúc là ý nghĩa của sự sống xanh, là bắt đầu của sự bắt đầu: là cảm xúc.
Hạnh phúc là cảm xúc đầu tiên nhất của LINH HỒN ĐẦU TIÊN- hạnh phúc là tri thức đầu tiên, là kỷ niệm đầu tiên, là kinh nghiệm đầu tiên, là ý nghĩ đầu tiên, là mục đích đầu tiên. Đây là cảm xúc- nghị lực-ý thức-tư tưởng đầu tiên, đây là THẾ GIỚI và SỰ SỐNG ĐẦU TIÊN, thứ được bồi đắp vào cây xanh, vào đá, vào nước, vào các vì sao, vào con người và vào các vị thần.
Đây là cảm xúc đầu tiên ngự trên quả đất, giống như mảnh nham thể cổ trong quả đất. Hạnh phúc là cảm xúc đầu tiên của thế gian, khi từ sự vô cơ sự sống được tỉnh giấc và đón nhận.
Hamvas Bela
Nguyễn Hồng Nhung dịch từ bản tiếng Hungary