“Nghệ Vương thủy mạt” trích từ “Nam Ông mộng lục”
Mặc dù phải sống lưu vong ở nước người, Hồ Nguyên Trừng (1374 – 1446) vẫn tưởng vọng về cố quốc, nên tự gọi là Nam Ông (Ông già nước Nam). Bằng hồi ức của mình, tác giả đã viết lại các mẩu chuyện về những con người tài đức ở nước Nam mà mình không còn được nhìn thấy nữa, và ông coi đó như là một giấc mộng, nên đặt cho tên sách là “Nam Ông mộng lục”. Dưới đây là trích đoạn hay nhất trong “Nam ông mộng lục” có tên “Nghệ Vương thủy mạt”. Điều kỳ lạ đó là những đoạn viết hay nhất trong “Nam Ông mộng lục”, Hồ Nguyên Trừng không dành để ca tụng thời đại của cha mình mà để ca ngợi cái đức và thi tài của các vị vua và hoàng thất nhà Trần.
Nghệ Vương thủy mạt (1)
Vua thứ tám nhà Trần ở nước An Nam húy Thúc Minh[2], con thứ ba của Minh Vương, do thứ phi họ Lê sinh ra. Lúc còn làm Vương tử, hiệu Cung Định Vương, tính thuần hậu hiếu hữu, cung kiệm sáng suốt, học khắp kinh sử, không thích phù hoa. Lệ cũ nhà Trần, khi con đã lớn, bèn cho kế vị, còn vua cha thì lui về ở Bắc cung, xưng làm Vương phụ[3], cùng coi chính sự, kì thực là truyền ngôi danh nghĩa để ổn định chuyện sau, phòng khi vội vã, chứ mọi việc đều do vua cha quyết định, tự vương không khác gì Thế tử vậy.
Vốn là, lúc thứ trưởng tử của Minh Vương là Hiến Vương lên ngôi, thì đích tử[4] mới sinh, trưởng là Cung Túc Vương[5], ngu dốt chuyện đời ; thứ là Lộc Tinh[6], tuổi còn thơ ấu thì Hiến Vương mất, lại vô tự, nên Lộc Tinh đã vâng mệnh lên ngôi, ấy là Dụ Vương. Thứ huynh Cung Tĩnh Vương[7]làm Thái úy, Cung Định Vương làm Tả Tướng quốc. Cung Định Vương trung tín thành thực, thờ vua thờ cha, chu đáo đến từng chân tơ sợi tóc, không ai chê trách. Giao tiếp không thân không sơ ; chính sự không chê không khen. Minh Vương qua đời, để tang ba năm, mắt không ráo lệ, trừ phục, quần áo không màu mè, ăn uống không cầu ngon ; quả muỗm cá heo[8] là trân vị phương Nam, từ đấy tuyệt nhiên không tới miệng. Thờ Dụ Vương hơn mười năm. Khi Dụ Vương mất sớm, vô tự, đại thần bàn rằng “Tả tướng rất hiền, nhưng không lẽ anh lại kế ngôi em”, bèn theo lệnh Quốc mẫu đón con của Cung Túc Vương là Vong Danh[9] làm vua. Bấy giờ, Cung Túc cũng đã sớm mất. Sau khi con Cung Túc làm vua, theo triều nghị, phong Thái úy lên làm Thái tể, Tả tướng làm Thái sư, và em của Tả tướng là Cung Tuyên Vương[10] làm Hữu tướng. Con Cung Túc nhỏ không chịu học, chỉ thích lêu lổng[11]. Người ta đồn bà mẹ tư thông với kẻ ngoại nhân họ Dương rồi đẻ con, nên Vong Danh thường bị người tôn thất khinh rẻ. Kế vị rồi, lúc cư tang không tỏ vẻ đau buồn, cử chỉ phần nhiều thất lễ, cất nhắc bọn tiểu nhân thân cận, miệt thị tổ phụ, khanh sĩ bất mãn. Năm sau, những người tôn thất bướng bỉnh cùng nhau làm loạn, bị bắt đem chém phanh thây, người liên lụy bị giết oan rất đông. Lại ngầm mưu khử sạch người họ Trần có danh vọng, bèn giết Thái tể ngay tại nhà[12].
Thái sư đang đêm lẻn trốn, sáng sớm, tông tộc quan liêu mang gia quyến chạy hết, đô thành vì vậy vắng tanh. Thái sư đi đường tắt đến tận vùng Man động, ý muốn tự tận, tả hữu ngăn lại. Người động giữ ở lại hàng tháng, ai cũng biết tiếng. Tông tộc quan liêu nối nhau tìm đến. Con Cung Túc sai quân đi bắt cũng lại quay đầu theo về. Hữu tướng đốc thúc các quan khuyên mời về kinh để dẹp yên cung cấm. Thái sư sụt sùi từ tạ “Chư quân sớm về thành ấp, khéo giúp minh quân, chuyển loạn thành trị, tôn an xã tắc, mỗ chết vẫn chịu ơn. Mỗ có tội với Chúa thượng, thoát thân chạy trốn, chờ chết ở chốn núi rừng này đã là may, dám có lòng dạ khác. Chư quân chớ gò ép”. Mọi người xôn xao, ba lần khẩn thiết dâng thư thề chết không đổi, cố ép lên đường, dùng vai làm kiệu đưa xuống núi. Gần xa mây tụ, hò reo vang trời. Về cách đô thành ba trăm dặm, lão tướng Nguyễn Ngô Lang bảo con Cung Túc tự tay viết thư nhận tội thoái vị, mang ra nghênh tạ. Con Cung Túc phục xuống chịu tội. Thái sư cũng quì xuống đất, ôm lấy, khóc lóc ai oán, nói “Chúa thượng phải đến thế này sao ? Thần bất hạnh, không ngờ có ngày hôm nay”. Hữu tướng tuốt kiếm thét lớn, nói “Trời sai trị tội, tội nhân sao được lắm lời? Tướng vương[13] lẽ nào vì chút nhân cỏn con mà bỏ đại nghĩa ?”. Bèn quát quân tướng lôi con Cung Túc đi, giục Hữu tư chuẩn bị lễ rước Thái sư lên ngôi vua, phế con Cung Túc làm Hôn Đức Công. Vua vào thành yết miếu, khóc mà cáo rằng “Ngày này thật ngoài ý muốn của thần. Vì xã tắc bền vững, không thể nào từ chối. Lỗi đạo hiếu trung, thẹn sợ trong lòng. Nguyện tự bỏ tôn vinh để thỏa phần nào chí cũ”. Bèn hạ lệnh không dùng vương xa, quần áo đồ vật sơn đen, không dùng châu báu vàng son. Các thức ăn mặc tiêu dùng tiết kiệm như trước, suốt đời mang tang trở không thay đổi. Bèn dứt loạn chính, noi theo nếp cũ, thưởng phạt công minh, dùng kẻ hiền lương. Thấy con mình bất tài khó đương đại sự, được một năm cho em là Hữu tướng kế vị, cùng coi triều chính, đó là Duệ Vương.
Trước đó, Chiêm Thành thừa lúc trong nước có việc, đến cướp. Duệ Vương lên ngôi được ba năm, thân chinh phạt tội Chiêm Thành, thua to không về. Vương cho con Duệ Vương là Hiện kế vị. Ít lâu sau, nghe lời gian thần, làm việc vô đạo, Vương lo xã tắc nghiêng đổ, than khóc mà phế đi, gọi là Linh Đức Công[14]. Lấy con út là Ngung kế vị, đó là Thuận Vương. Được bảy năm, vua cha mất. Bấy giờ là năm Giáp Tuất, niên hiệu Hồng Vũ thứ hai mươi bảy[15]. Táng ở núi Yên Sinh, thụy là Nghệ.
Xưa kia, Nghệ Vương còn nhỏ, tám chín tuổi theo hầu Minh Vương, trên giường có chiếc chiếu trúc, bảo vịnh thử, ứng khẩu đọc rằng
Có người quân tử cao lớn
Trong thì rỗng mà ngoài thì cứng
Bắt nó dùng làm đày tớ
Sợ gây tổn thương nhân tính[16]
Minh Vương ấy làm lạ, vờ mắng rằng “Chẳng ra lời lẽ, đừng ghi chép lại”[17]. Bèn dặn Sư phó không dạy làm thơ nữa. Người quân tử nói “Mệnh trời đã hiện, không ai cản nổi”, sau quả nhiên thế. Sau khi lên ngôi, [Nghệ Vương] nhặt hết con cái cháu chắt côi cút trong anh chị em đưa vào cung nuôi nấng, coi như con đẻ. Tông tộc xa gần đều yêu thương đùm bọc. Sau cơn loạn lạc, kẻ nào nghèo khổ không thể cưới xin được, thì lấy vợ gả chồng cho họ ; người nào chưa được chôn cất, thì chôn cất cho họ ; cả điều vặt vãnh chi tiết, không có gì là không thu nhặt chép lại. Xóm giềng hòa hợp, đầm ấm như tiết xuân. Người trong nước được cảm hóa, phong tục dần dần trở nên thuần hậu. Vua ở đất này cũng có người tốt đến thế ư ?
Chú thích
(1) Vì Hồ Nguyên Trừng trước tác tác phẩm này lúc làm quan ở Trung Quốc, nên chỉ gọi miếu hiệu các vua Việt Nam bằng vương tước, là tước của Trung Quốc phong cho.
(2) Sử sách Việt Nam ghi rằng ông húy là Phủ 暊
(3) Thực ra xưng là Thái Thượng hoàng
(4) Đích tử là con của vợ đích (vợ cả, thường là Hoàng hậu), còn thứ trưởng tử là con vợ thứ (như các phi tần).
(5) Cung Túc Vương Trần Nguyên Dục (? – 1364), con trai của Trần Minh Tông và Hiển Từ Hoàng hậu
(6) Sử sách Việt Nam ghi rằng ông húy là Hạo 暭
(7) Trần Nguyên Trác (1319 – 1370), con trai của Trần Minh Tông, làm Thái tể, sau bị Dương Nhật Lễ giết vì âm mưu đảo chính
(8) Nguyên văn :hải đồn ngư với chữ đồn là con heo (lợn), nên đây có thể dịch là cá heo. Không nên lầm sang hải điều ngư tức cá hồng
(9) Sử sách Việt Nam chép tên là Nhật Lễ 日禮
(10) Tức Trần Duệ Tông
(11) Dịch chữ du hiệp, chỉ những người hiệp khách đi lại đó đây thời xưa. Nhà nho thường bài bác họ
(12) Sự kiện xảy ra vào ngày 20 tháng 9 âm lịch năm 1370, Thái tể Nguyên Trác cùng con là Nguyên Tiết, hai người con của công chúa Thiên Ninh cùng người tôn thất, tất cả 18 người, ngầm mưu ám sát Nhật Lễ. Chuyện bị bại lộ, cả đám đều chết
(13) Chỉ Nghệ Tông
(14) Năm Xương Phù thứ mười hai đời Trần Phế Đế (1388), vua cùng Thái úy Trần Ngạc ngầm mưu giết Hồ Quý Ly và phe cánh, việc bại lộ, Quý Ly xui Nghệ Tông phế vua rồi giết đi, cùng giết phe cánh của vua.
(15) 1394
(16) Chiếu chúc trong Hán tự là trúc nô 竹奴. Ý nói trúc là giống cây quân tử, trong lòng rỗng mà ngoài thì cứng cáp, lấy nó làm chiếu trúc thì sợ rằng sẽ gây tổn thương tự trọng. Bài thơ khuyên vua phải biết dùng người, không nên làm nhục kẻ sĩ
(17) Theo phép chép sử ngày xưa, triều đình đặt sử quan, dùng để ghi lại việc làm và hành động của vua cũng như triều đình, quốc gia, biên chép thành thực lục để làm căn cứ soạn quốc sử. Ở đây Minh Tông ra lệnh cho sử quan đừng ghi lại bài thơ này vậy