Những câu thơ hay nhất trong “Đoạn trường tân thanh” của Nguyễn Du
Nguyễn Du (1766 – 1820) là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất ở giai đoạn cuối của thơ ca Trung đại. Những sáng tác tiếng Hán của ông đã đạt đến tuyệt tác, nhưng tác phẩm chữ Nôm “Đoạn trường tân thanh” đã đạt đến mức độ hoàn hảo về ngôn từ. Ở đây, chúng tôi xin phép không quan tâm đến vấn đề cốt truyện của “Đoạn trường tân thanh” mà chỉ quan tâm đến các vần thơ đẹp thể hiện cho bút pháp tài hoa của Nguyễn Du.
Dưới đây là một số trích đoạn thơ xuất sắc nhất trong “Đoạn trường tân thanh”:
HỒI 1 (Trích đoạn)
Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài, chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Trải qua một cuộc bể dâu.
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
Lạ gì bỉ sắc tư phong,
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.
Cảo thơm lần giở trước đèn,
Phong tình có lục còn truyền sử xanh
HỒI 2 (Trích đoạn)
Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Thanh minh, trong tiết tháng ba,
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.
Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Dập dìu tài tử giai nhân,
Ngựa xe như nước, áo quần như nêm.
Ngổn ngang gò đống kéo lên,
Thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay
Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dan tay ra về.
Bước lần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
55. Nao nao dòng nước uốn quanh,
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang
Sè sè nấm đất bên đường,
Dầu dầu ngọn cỏ, nửa vàng nửa xanh,
…
Người quốc sắc, kẻ thiên tài,
Tình trong như đã, mặt ngoài còn e.
Chập chờn cơn tỉnh, cơn mê,
Rốn ngồi chẳng tiện, dứt về chỉn khôn.
Bóng tà như giục cơn buồn
Khách đà lên ngựa, người còn ghé theo
Dưới dòng nước chảy trong veo,
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.
HỒI 4 (Trích đoạn)
Gió chiều như gợi cơn sầu
Vi lô hiu hắt như mầu khơi trêu
Nghề riêng nhớ ít, tưởng nhiều,
Xăm xăm đè nẻo Lam Kiều dần sang
Thâm nghiêm, kín cổng, cao tường,
Cạn dòng lá thắm, dứt đường chim xanh.
Lơ thơ tơ liễu buông mành
Con oanh học nói trên cành mỉa mai
Mấy lần cửa đóng then cài
Đầy thềm hoa rụng, biết người ở dâu?
Tần ngần đứng suốt giờ lâu
Dạo quanh chợt thấy mái sau có nhà
…
Nàng rằng: Nghề mọn riêng tay
Làm chi cho bận lòng này lắm thân?
So dần dây vũ dây văn
Bốn dây to nhỏ theo vần cung thương
Khúc đâu Hán Sở chiến trường
Nghe ra tiếng sắt tiếng vàng chen nhau
Khúc đâu Tư mã phượng cầu
Nghe ra như oán như sầu phải chăng?
Kê Khang này khúc Quảng Lăng
Một rằng Lưu thuỷ, hai rằng Hành vân
Quá quan này khúc Chiêu Quân
Nửa phần luyến chúa, nửa phần tư gia
Trong như tiếng hạc bay qua
Đục như tiếng suối mới xa nửa vời
Tiếng khoan như gió thoảng ngoài,
Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa
Ngọn đèn khi tỏ khi mờ
Khiến người ngồi đó cũng ngơ ngẩn sầu
Khi tựa gối, khi cúi đầu
Khi vò chín khúc, khi chau đôi mày
Rằng: Hay thì thật là hay,
Nghe ra ngậm đắng, nuốt cay thế nào!
So chi những bậc tiêu tao
Dột lòng mình cũng nao nao lòng người
Rằng: Quen mất nết đi rồi
Tẻ vui thôi cũng tính trời biết sao!
Lời vàng vâng lĩnh ý cao,
Hoạ dần dần bớt chút nào được không.
Hoa hương càng tỏ thức hồng
Đầu mày, cuối mắt, càng nồng tấm yêu
Sóng tình dường đã xiêu xiêu
Xem trong âu yếm có chiều lả lơi
HỒI 5 (Trích đoạn)
Mảng tin xiết nỗi kinh hoàng
Băng mình lẻn trước đài trang tự tình
Gót đầu mọi nỗi đinh ninh
Nỗi nhà tang tóc, nỗi mình xa xôi:
Sự đâu chưa kịp đôi hồi,
Duyên đâu chưa kịp một lời trao tơ
Trăng thề còn đó trơ trơ
Dám xa xôi mặt, mà thưa thớt lòng
Ngoài nghìn dặm chốc ba đông
Mối sầu khi gỡ cho xong còn chầy!
Gìn vàng giữ ngọc cho hay
Cho đành lòng kẻ chưng mây cuối trời.
Tai nghe ruột rối bời bời
Ngập ngừng nàng mới giãi lời trước sau:
Ông tơ gàn quải chi nhau
Chưa vui sum hợp đã sầu chia phôi!
Cùng nhau trót đã nặng lời
Dẫu thay mái tóc, dám rời lòng tơ!
Quản bao tháng đợi năm chờ
Nghĩ người ăn gió nằm mưa xót thầm
Đã nguyền hai chữ đồng tâm
Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai
Còn non, còn nước, còn dài,
Còn về, còn nhớ đến người hôm nay.
Dùng dằng chưa nõ rời tay
Vầng đông trông đã đứng ngay mái nhà
Ngại ngùng một bước một xa
Một lời trân trọng, châu sa mấy hàng
Buộc yên, quảy gánh, vội vàng
Mối sầu xẻ nửa, bước đường chia hai
HỒI 7 (Trích đoạn)
Một mình nàng, ngọn đèn khuya
Áo dầm giọt lệ, tóc se mái sầu
Phận dầu, dầu vậy cũng dầu
Xót lòng đeo đẳng bấy lâu một lời!
Công trình kể biết mấy mươi
Vì ta khắng khít cho người dở dang
Thề hoa chưa ráo chén vàng
Lỗi thề thôi đã phủ phàng với hoa!
Trời Liêu non nước bao xa,
Nghĩ đâu rẽ cửa, chia nhà tự tôi!
Biết bao duyên nợ thề bồi
Kiếp này thôi thế thì thôi còn gì?
Tái sinh chưa dứt hương thề,
Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai
Nợ tình chưa trả cho ai
Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan!
Nỗi riêng, riêng những bàn hoàn
Dầu chong trắng dã, lệ tràn thấm khăn
…
Chiếc thoa với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung
Dầu em nên vợ, nên chồng,
Xót người mệnh bạc, ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa
Mai sau, dầu có bao giờ,
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này;
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rảy xin chén nước cho người thác oan
Bây giờ trâm gãy bình tan
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân!
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi
Phận sao phận bạc như vôi?
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng
Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi! Thiếp đã phụ chàng từ đây!
HỒI 11 (Trích đoạn)
Buồng riêng, riêng những sụt sùi
Nghĩ thân mà lại ngậm ngùi cho thân
Tiếc thay trong giá trắng ngần!
Đến phong trần cũng phong trần như ai
Tẻ vui cũng một kiếp người
Hồng nhan phải giống ở đời mãi ru!
Kiếp xưa đã vụng đường tu
Kiếp này chẳng kẻo đền bù mới xuôi!
Dầu sao bình đã vỡ rồi
Lấy thân mà trả nợ đời cho xong!
…
Này con thuộc lấy tấm lòng
Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề
Chơi cho liễu chán hoa chê
Cho lăn lóc đá, cho mê mẩn đời
Khi khoé hạnh, khi nét ngài
Khi ngâm ngợi nguyệt, khi cười cợt hoa
Đều là nghề nghiệp trong nhà
Đủ ngần ấy nết, mới là người soi.
Gót đầu vâng dạy mấy lời
Đường châu nét nguyệt, đường phai vẻ hồng
Những nghe nói, đã thẹn thùng
Nước đời lắm nỗi lạ lùng khắt khe!
Xót mình cửa các buồng khuê
Vỡ lòng, học lấy những nghề nghiệp hay!
Khéo là mặt dạn mày dày!
Kiếp người đã đến thế này thì thôi!
Thương thay thân phận lạc loài!
Dầu sao cũng ở tay người biết sao?
Lầu xanh mới rủ trướng đào
Càng treo giá ngọc, càng cao phẩm người
Biết bao bướm lả, ong lơi!
Cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm
Dập dìu lá gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng Khanh
Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh
Giật mình, mình lại thương mình xót xa
Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường?
Mặt sao dày gió dạn sương?
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân?
Mặc người mưa Sở mây Tần
Những mình nào biết có xuân là gì?
Đòi phen gió tựa hoa kề
Nửa rèn tuyết ngậm, bốn bề trăng thâu
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu?
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ!
Đôi phen nét vẽ câu thơ
Cung cầm trong nguyệt, nước cờ dưới hoa
Vui là vui gượng kẻo là
Ai tri âm đó mặn mà với ai?
Thờ ơ gió trúc mưa mai
Ngẩn ngơ trăm nỗi, giùi mài một thân
Nỗi lòng đòi đoạn xa gần
Chẳng vò mà rối, chẳng rầu mà đau!
Nhớ ơn chín chữ cao sâu
Một ngày nột ngả bóng dâu tà tà
Dặm nghìn, nước thẳm, non xa
Nghĩ đâu thân phận con ra thế này?
Sân hoè đôi chút thơ ngây
Trân cam, ai kẻ đỡ thay việc mình?
Nhớ lời nguyền ước ba sinh
Xa xôi ai có biết tình chăng ai?
Khi về hỏi liễu Chương Đài
Cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay?
Tình sâu mong trả nghĩa dày
Hoa kia đã chắp cây này cho chưa?
Mối tình đôi đoạn vò tơ
Giấc hương quan, luống lầm mơ canh dài
Song sa vò võ phương trời
Nay hoàng hôn đã, lại mai hôn hoàng
Lần lần thỏ bạc ác vàng
Xót người trong hội đoạn tràng đòi cơn!
Đã cho lấy chữ hồng nhan
Làm cho, cho hại, cho tàn, cho cân!
Đã đầy vào kiếp phong trần
Sao cho sỉ nhục một lần mới thôi!
HỒI 14 (Trích đoạn)
Người lên ngựa, kẻ chia bào
Rừng phong, thu đã nhuốm màu quan san
Dặm hồng bụi cuốn chinh an
Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh
Người về chiếc bóng năm canh
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi
Vầng trăng ai xẻ làm đôi?
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường
HỒI 17 (Trích đoạn)
Nàng từ lánh gót vườn hoa
Dường gần rừng tía, dường xa bụi hồng
Nhân duyên đâu lại còn mong?
Khỏi điều thẹn phấn, tủi hồng thì thôi
Phật tiền thảm lấp sầu vùi
Ngày phò thủ tự, đêm nhồi tâm hương
Cho hay giọt nước cành dương
Lửa lòng tưới tắt mọi đường trần duyên
Nâu sồng từ trở màu thuyền
Sân thu trăng đã vài phen đứng đầu
…
Liệu mà xa chạy cao bay
Ái ân ta có ngần này mà thôi!
Bây giờ kẻ ngược người xuôi
Biết bao giờ lại nối lời nước non?
Dẫu rằng sông cạn đá mòn
Con tằm đến thác cũng còn vương tơ!
Cùng nhau kể lể sau xưa
Nói rồi lại nói, lời chưa hết lời
HỒI 18 (Trích đoạn)
Lần thâu gió mát trăng thanh
Bỗng đâu có khách biên đình sang chơi
Râu hùm, hàm én, mày ngài
Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao
Đường đường một đấng anh hào
Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài
Đội trời đạp đất ở đời
Họ Từ tên Hải, vốn người Việt Đông
Giang hồ quen thói vẫy vùng
Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo
Qua chơi thấy tiếng nàng Kiều
Tấm lòng nhi nữ cũng xiêu anh hùng
Thiếp danh đưa đến lầu hồng
Hai bên cùng liếc, hai lòng cùng ưa
Từ rằng: Tâm phúc tương cờ
Phải người trăng gió vật vờ hay sao?
Bấy lâu nghe tiếng má đào
Mắt xanh chẳng để ai vào, có không?
Một đời được mấy anh hùng
Bõ chi cá chậu chim lồng mà chơi?
Nàng rằng: Người dạy quá lời
Thân này còn dám coi ai làm thường!
Chút riêng chọn đá thử vàng
Biết đâu mà gửi can tràng vào đâu?
Còn như vào trước ra sau
Ai cho kén chọn vàng thau tại mình?
Từ rằng: Lời nói hữu tình!
Khiến người lại nhớ câu Bình Nguyên Quân
Lại đây xem lại cho gần
Phỏng tin được một vài phần hay không?
Thưa rằng: Lượng cả bao dung
Tấn Dương được thấy mây rồng có phen
Rộng thương cỏ nội, hoa hèn
Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau.
Nghe lời vừa ý, gật đầu
Cười rằng: Tri kỷ trước sau mấy người?
Khen cho con mắt tinh đời
Anh hùng, đoán giữa trần ai mới già!
Một lời đã biết đến ta
Muôn chung, nghìn tứ, cũng là có nhau!
…
Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm, yên ngựa, lên đàng thẳng rong
HỒI 20 (Trích đoạn)
Thừa cơ trúc chẻ, ngói tan
Binh uy từ đấy sấm ran trong ngoài
Triều đình riêng một góc trời
Gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà
Đòi cơn gió quét mưa sa
Huyện thành đạp đổ năm toà cõi nam
Phong trần, mài một lưỡi gươm
Những loài giá áo túi cơm sá gì!
Nghênh ngang một cõi biên thuỳ
Thiếu gì cô quả, thiếu gì bá vương
Trước cờ ai dám tranh cường
Năm năm hùng cứ một phương hải tần
…
Một tay gây dựng cơ đồ
Bấy lâu bể Sở, sông Ngô tung hoành!
Bó thân về với triều đình
Hàng thần lơ láo, phận mình ra đâu?
Áo xiêm buộc trói lấy nhau
Vào luồn ra cúi, công hầu mà chi!
Sao bằng riêng một biên thuỳ
Sức này đã dễ làm gì được nhau
Chọc trời, khuấy nước, mặc dầu
Dọc ngang nào biết trên đầu có ai.
…
Khí thiêng khi đã về thần
Nhơn nhơn còn đứng chôn chân giữa vòng
Trơ như đá, vững như đồng
Ai lay chẳng chuyển, ai rung chẳng rời
…
Đầy đường cỏ mọc lau thưa
Song trăng quạnh quẽ, vách mưa rã rời
Trước sau nào thấy bóng người
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông
Xập xè én liệng lầu không
Cỏ lan mặt đất, rêu phong dấu giày
Cuối tường gai gốc mọc đầy
Đi về, này những lối này năm xưa
Chung quanh lặng ngắt như tờ
HỒI 22 (Trích đoạn)
Ngẫm hay muôn sự tại trời
Trời kia đã bắt làm người có thân
Bắt phong trần, phải phong trần
Cho thanh cao, mới được phần thanh cao
Có đâu thiên vị người nào
Chữ Tài, chữ Mệnh dồi dào cả hai
Có tài, mà cậy chi tài?
Chữ tài liền với chữ tai một vần
Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa
Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài!
Lời quê chắp nhặt dông dài
Mua vui cũng được một vài trống canh.