Trừu tư – Rút bày tâm sự – Khuất Nguyên
Phiên âm:
TRỪU TƯ
Tâm uất uất chi ưu tư hề,
Độc vĩnh thán hồ tăng thương.
Tư Kiển sản chi bất thích hề,
Man tao dạ chi phương trường.
Bi thu phong chi động dung hề,
Hà hồi cực chi phù phù.
Sác duy tôn chi đa nộ hề,
Thương dư tâm chi ưu ưu.
Nguyện giao khởi nhi hoành bôn hề,
Lãm dân vưu dĩ tự trấn.
Kết vi tình dĩ trần từ hề,
Kiều dĩ di phù mỹ nhân.
Tích quân dữ ngã thành ngôn hề,
Viết hoàng hôn dĩ vi kỳ.
Khương trung đạo nhi hồi bạn hề,
Phản ký hữu thử tha chí.
Kiều ngô dĩ kỳ mỹ hảo hề,
Lãm dư dĩ kỳ tu khóa.
Dữ dư ngôn nhi bất tín hề,
Cái vị dư nhi tao nộ.
Nguyện thừa gián nhi tự sát hề,
Tâm chẩn điệu nhi bất cảm.
Bi di do nhi ký tiến hề,
Tâm dát thương chi đảm đảm.
Tư lịch tình dĩ trần từ hề,
Tôn dương lung nhi bất văn.
Cố thiết nhân chi bất my hề,
Chúng quả dĩ ngã vi hoạn.
Sơ ngô sở trần chi cảnh trước hề,
Khởi chí kim kỳ dung vong.
Hà độc lạc tư chi kiển kiển hề,
Nguyện tôn mỹ chi khả quang.
Vọng tam ngũ dĩ vi tượng hề,
Chỉ Bành Hàm dĩ vi nghi.
Phù hà cực nhi bất chí hề,
Cố viễn văn nhi nan khuy.
Thiện bất do ngoại lai hề,
Danh bất khả dĩ hư tác.
Thục vô thi nhi hữu báo hề,
Thục bất thực nhi hữu hoạch.
(Thiếu ca viết)
Dữ mỹ nhân trừu tư hề,
Tịnh nhật dạ nhi vô chính.
Kiêu ngô dĩ kỳ mỹ hảo hề,
Ngạo trẫm từ nhi bất thính.
Xướng viết: hữu điểu tự Nam hề,
Lai tập Hán bắc.
Hảo Khóa giai lệ hề,
Phán độc xứ Kỳ dị vực.
Ký quýnh độc nhi bất quần hề,
Hựu vô lương môi tại kỳ trác.
Đạo trác viễn nhi nhật vong hề,
Nguyện tự thân nhi bất đắc,
Vọng Bẳc sơn nhi lưu thế hề,
Lâm lưu thủy nhi thái tức.
Vọng mạnh hạ chi đoản dạ hề,
Hà hối minh chi nhược tuế.
Duy sính lộ chi liêu viễn hề,
Hồn nhất tịch nhi cửu thệ.
Tằng bất tri lộ chi khúc trực hề,
Nam chỉ nguyệt dữ liệt tinh.
Nguyện kính thệ nhi vị đắc hề,
Hồn thức lộ chi dinh dinh.
Hà linh hồn chi tín trực hề,
Nhân chi tâm bất dữ ngô tâm đồng.
Lý nhược nhi môi bất thông hề,
Thượng bất tri ngô chi thung dung.
(Loạn viết)
Trường lại suyền lưu, tố giang đàm hề,
Cuồng cố nam hành, liêu dĩ ngu tâm hề
Chẩn thạch ổi ngôi, kiển ngô nguyện hề
Siêu hồi chí độ, hành ẩn tiến hề,
Đê hồi di do, túc bắc cô hề.
Phiền oan mâu dung, thực bái tô hề.
Sầu thán khổ thần, linh dao tư hề.
Lộ viễn xử u, hựu vô hành môi hề.
Đạo tư tác tụng liêu dĩ tự cứu hề.
Ưu tâm bất toại, tư ngôn thùy cáo hề.
Dịch nghĩa:
RÚT BÀY TÂM SỰ
Lòng uất uất và lo âu a,
Riêng than mãi mà thêm đau xót.
Nghĩ tức tối mà chẳng khuây được a,
Lại gặp đêm quá dài.
Buồn gió thu cảnh xác xơ a,
Sao xoáy quá liên miên thế!
Nghĩ tôn (chỉ vua) giận nhiều lắm a,
Xót lòng ta cứ đau đớn.
Muốn vùng dậy mà chạy vung a,
Thấy khổ dân lại tự trấn tĩnh.
Kết tình mọn mà bày lời ca a,
Để gởi tặng người đẹp.
Xưa vua cùng ta đã ước lời a,
Rằng lấy hoàng hôn làm kỳ hẹn.
Sao nửa đường lại quay về a,
Lại có chí khác ấy?
Ngạo với ta vẻ quí báu a,
Cho ta xem vẻ tốt dẹp.
Cùng ta nói mà chẳng thực a,
Lại vì ta mà nổi giận.
Nguyện thừa nhàn mà tự giãi tỏ a,
Lòng lại run sợ vì không dám.
Buồn do dự mà muốn tiến a,
Lòng đau xót mà cứ bồi hồi.
Nay vạch tình mà bày lời a,
Tôn (chỉ vua) lại giả điếc không thèm nghe.
Vốn người ngay thẳng không nịnh hót a,
Chúng lại quả quyết cho ta là mối lo.
Trước ta trình bày đã rõ rệt a,
Há đến nay lại quên được!
Sao riêng vui mà khăn khắn a,
Mong tôn (chỉ vua) tốt được hoàn toàn.
Trông Tam hoàng ngũ đế làm gương a,
Chỉ Bành Hàm lấy làm mẫu mực.
Xa thế nào mà chẳng đến được a,
Nên tiếng tăm nghe xa mà khó dứt.
Thiện không do từ ngoài lại a,
Danh không thể do hư mà có.
Ai không cho mà có trả lại a,
Ai không gieo mà được gặt?
(Ca nhỏ)
Cùng ngày người đẹp rút bày oán a
Luôn ngày đêm không ai chứng cho.
Khoe đẹp tốt với ta a,
Ngạo lời ta mà chẳng nghe.
(Xướng rằng)
Có chim từ phương Nam a,
Đen đậu ở Hán Bắc.
Dịu dàng xinh đẹp a,
Lìa ở một mình nơi đất lạ.
Đã cô độc mà lẻ loi a,
Lại không có mối lành ở bên cạnh.
Đường xa xôi mà ngày càng bị quên a,
Nguyện tự bày tỏ mà không được.
Trông núi Bắc mà chảy nước mắt a,
Đến dòng nước mà thở dài.
Trông đầu hè đêm ngắn a,
Sao tối tăm dài như năm!
Nghĩ đường về Sính xa xôi a,
Hồn một đêm mà chín lần đi.
Từng không biết đường cong hay thẳng
Nhắm trăng và sao ở phía Nam.
Muốn đi tắt mà chưa được a,
Hồn biết đường dài dằng dặc.
Sao linh hồn cứ ngay thẳng mãi a,
Lòng người với lòng ta không đồng!
Lái yếu mà mối chẳng thông a,
Vẫn còn chăng biết ta là đúng đắn.
(Lời kết)
Thác dài chảy xiết, ngược sông đầm a,
Điên ruột ngoái lại phía Nam mà đi để tạm khuây lòng.
Đường khấp khểnh đá, trái mong muốn của ta a,
Vượt chí tà mà đi lặng lẽ, tiến lên a.
Bồi hồi do dự,
Ngủ ở Bắc cô a,
Phiền oan rối rắm,
Mà cứ trôi đi a.
Sầu than thần khổ,
Hồn nghĩ về xa a,
Đường xa chốn vắng
Lại không có mối manh a.
Tỏ từ làm bài ca, để tạm tự cứu a,
Lòng buồn chẳng toại, lời này cáo với ai a?
Dịch thơ:
RÚT BÀY TÂM TƯ
Lòng uất ức mà lo âu a,
Chạnh than hoài càng đau xót.
Nghĩ tức tối mà chẳng khuây a,
Suốt đêm trường luôn trằn trọc.
Buồn gió thu cảnh xơ xác a.
Sao xoáy lắm như thế hoài!
Nghĩ chúa sao giận quá chừng a,
Khiến lòng ta than thở dài.
Muốn vùng dậy mà chạy vung a,
Thấy khổ dân mà phải lặng.
Kết tình mọn làm bài ca a,
Lên người đẹp ta gởi tặng.
Xưa Người cùng ta đã ước a,
Hẹn chiều hôm thì gặp nhau.
Sao nửa chừng lại nỡ trái a,
Mà với ta đã lòng nào!
Lại lòe đẹp với ta a,
Khoe với ta vẻ yểu điệu.
Nói với ta mà chẳng tin a,
Lại vì ta mà nổi cáu.
Mong thừa lúc bộc bạch a,
Lòng run sợ mà lại thôi.
Buồn do dự mà muốn tiến a,
Lòng đau xót mà bồi hồi.
Nay vạch tình mà tỏ lời a,
Bề trên chẳng nghe giả điếc.
Vốn người ngay mà chẳng nịnh a,
Chúng quyết bảo đồ hỏng việc.
Ta trình bày vốn rõ rệt a,
Há đến nay mà đã quên!
Ta sao riêng vui khăn khắn a,
Nguyện Bề trên đức sáng lên.
Tam hoàng Ngũ đế trông gương a,
Nhắm Bành Hàm làm mẫu mực.
Xa xôi mấy mà chẳng đến a,
Khiến nơi nơi danh đều nức.
Thiện chẳng do ngoài lại a,
Danh với thực phải phù nhau.
Ai không cho mà có trả a,
Ai không gieo mà gặt đâu?
(Ca nhỏ)
Cùng người đẹp rút bày lòng a,
Luôn ngày đêm chẳng ai chứng.
Khoe tốt đẹp với ta a,
Ngạo lời ta mà chẳng khứng.
(Xướng)
Có chim từ Nam a,
Dừng đậu ở Hán Bắc.
Xinh đẹp dịu dàng a,
Cô đơn ở nơi dị vực.
Chon von đứng lẻ a,
Lại không kẻ làm mối lành.
Đường cách xa bị lãng quên a,
Muốn giãi bày mà chẳng thành.
Trông núi Bắc mà rơi lệ a,
Tới dòng trong mà rên xiết.
Trông đêm đầu hè vốn ngắn a,
Sao đằng đẵng mà không hết,
Nghĩ đường về Sính xa thẳm a,
Hồn một đêm trẩy chín tao.
Ta chẳng biết đường quanh thẳng a,
Nhắm miền Nam trăng và sao.
Mong đi tắt mà chẳng được a,
Hồn thấy đường dài dằng dặc.
Linh hồn sao cứ ngay thẳng a,
Người với ta lòng sao khác!
Lái yếu mà mối chẳng thông a,
Vẫn chẳng biết ta mực thước.
(Lời kết)
Lên thác xuống ghềnh ta ngược sông a,
Vội ngoảnh về Nam mà tạm yên.
Đường khấp khểnh trái lòng ta a.
Vượt ý ta mà lặng tiến lên a.
Ngần ngừ do dự,
Đến Bắc Cô ngủ lại a,
Oan sầu bối rối,
Cứ thế mà trôi nổi a.
Thở than bi thảm,
Tâm thần nghĩ về đâu a?
Đường xa chốn lánh,
Lại chẳng mối manh nào a.
Nghĩ làm ca đố tự giải a,
Lòng chẳng thỏa cùng ai kêu a.
Đào Duy Anh dịch
Trích từ Cửu chương – Khuất Nguyên
Bài thơ được sáng tác sau khi Khuất Nguyên bị giáng chức lần đầu tiên thời Sở Hoài Vương và ông đã chuyển tới Hán Bắc. Trừu tư nghĩa là lần gỡ ra đầu mối từ những dòng suy nghĩ phức tạp của mình để trình bày lại. Nhà thơ đã rờl Sính Đô, trung tâm chính trị của nước Sở để tới vùng Hán Bắc, ông vẫn luôn đầy hy vọng với việc quay lại triều đình, ông vẫn chưa tuyệt vọng với Sớ Hoài Vương và tiền đồ của nước Sở, chính vì vậy mà ngay cả trong giấc mơ ông vẫn nồng nhiệt hướng về Sính Đô và Sở Vương, tin tưởng rằng lý tưởng của mình sẽ có cơ hội được thực hiện. Nhưng hiện thực chính trị quá khắc nghiệt đã vùi dập nhà thơ một cách phũ phàng.
Bài thơ này trích từ Sở Từ tập chú quyển 4, nhà xuất bản Văn học Nhân Dân in chụp Tổng bản.