THỜI NIÊN THIẾU
Hàn Mặc Tử sinh ngày 22 tháng 9 năm 1912. Theo gia phả, ông nội của thi sĩ là Phạm Bồi, quê ở Thanh Hóa, di cư vào Thừa Thiên và đổi tên là Nguyễn Bồi. Cụ Bồi được một linh mục thừa sai Pháp, tên là cố Đồng, giúp cho lập nghiệp tại xứ Ồ Ồ, cách Huế độ 30 cây số.
Cụ Bồi có người con trai là Nguyễn Toản. Khi trẻ, cậu Toản được cố Đồng đỡ đầu cho đi tu và học tại Đại Chủng Viện Huế. Thầy Toản chịu bốn chức, nhưng xét thấy không có ơn kêu gọi làm linh mục, nên đã xin bề trên ra ngoài, lập gia đình với cô Nguyền Thị Duy là con gái vị ngự y nổi danh triều Tự Đức. Ông Toản ban đầu làm thông ngôn cho Toà Sứ ở Hội An, làm Ký Lục cho sở Thương Chánh, sau thi đậu Tham Tá và được bổ nhiệm giữ chức Chủ Sự Phòng Thương Chánh ở Đồng Hới. Chính nơi đây ông bà Nguyễn Toản sinh hạ cậu Nguyễn Trọng Trí, tức thi sĩ Hàn Mặc Tử. Ông Bà Toản có sáu người con tên là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, và Hiếu. Cậu Nguyễn Trọng Trí là con thứ tư, bị đau yếu từ lúc mới sinh. Khi rửa tội cha xứ đặt tên thánh cho cậu là Phanxicô, và khi chịu phép thêm sức, tên thánh của cậu là Phanxicô Xaviê.
Ban đầu, cậu Trí được khai tâm tại trường của các chị dòng Mến Thánh Giá xứ Tam Toà, rồi vì là công chức, ông thân sinh phải đổi đi nhiều nơi, nên cậu Trí đã theo học ở nhiều chỗ. Đến năm 1926, lúc cậu lên 14 tuổi, thì ông thân sinh mất, bà mẹ đem cả gia đình về Quy Nhơn sinh sống. Tại đây cậu bắt chước ông anh là Nguyễn Bá Nhân làm thơ, và lấy bút hiệu đầu tiên là Minh Duệ Thị. Hai anh em thi nhau xướng hoạ và theo các nhà phê bình văn học, thì thơ của cậu em có vẻ xuất sắc hơn thơ của ông anh. Nhưng thân mẫu không muốn con suốt ngày cứ ngâm với vịnh, bà muốn con có một nền giáo dục tốt, một căn bản đạo đức vững chắc, nên không ngại tốn hao tiền của, gửi con ra trường trung học Pellerin ở Huế để các Sư Huynh Công Giáo dậy dỗ.
Thời bấy giờ, Huế là nơi sinh hoạt văn học nghệ thuật, nên công việc đầu tiên của Trí là đổi ngay một bút hiệu khác: bút hiệu Phong Trần. Nhà thơ Phong Trần lúc này còn rất trẻ, rất mộng mơ, nhưng đã đều đều sáng tác thi ca để đăng các báo ở Huế, Saigòn. Thơ của Phong Trần lúc này chưa tuyệt hảo lắm, nhưng cũng làm cho thi sĩ Quách Tấn say mê, cảm phục. Nhờ đó, mà tình bạn giữa Quách Tấn và Nguyễn Trọng Trí sau này triển nở một cách tốt đẹp.
Việc học của cậu Trí ở Huế tỏ ra không khởi sắc lắm, ngoại trừ việt văn là đạt kết quả tốt, còn các môn học khác như toán, khoa học, ngoại ngữ chỉ đạt kết quả trung bình. Không bao lâu, thấy việc học hành không hứng thú, cậu Trí nhất quyết giã từ mái trường, mặc những lời khuyên bảo tha thiết của bà mẹ. Thời gian đó là năm 1930, lúc cậu Trí được đúng 18 tuổi.
Tại sao Nguyễn Trọng Trí nhất quyết theo đuổi thú làm thơ? Ta hãy nghe chính anh tâm sự:
“Ai nói vườn trăng là nói vườn mơ. Ai nói bến mộng là nói bến tình. Người thơ là khách lạ đi giữa nguồn trong trẻo…”
Trên đầu Người là cao cả vô biên, và vô lượng; chung quanh Người là mơn trớn với yêu đương vây phủ bằng trăm dây quyến luyến, làm bằng êm dịu, làm bằng thanh bai….. Gió phương mô đẩy đưa Người đến bờ xa lạ, đầy trinh tiết và đầy hương sắc. Người dừng lại để bái những lá tinh hoa. Người nín lặng để mà nghe tiếng trăng reo vang như tiếng châu báu vỡ lở. À! Ra Người cũng dại dột hốt vàng rơi bọc trong vạt áo.
Trí Người đã dâng cao và thơ Người dâng cao hơn nữa. Thì ra Người đang say sưa đi trong Mơ ước, trong Huyền diệu, trong Sáng láng và vượt hẳn ra ngoài Hư linh…
“Tôi làm thơ?
Nghĩa là tôi nhấn một cung đàn, bấm một đường tơ, rung rinh một làn ánh sáng.
Anh sẽ thấy hơi đàn lả lướt theo hơi thở của hồn tôi và chìu theo những sóng điện nóng ran trút xuống bởi năm đầu ngón tay uyển chuyển.
Anh sẽ run theo khúc ngân nga của tơ đồng, sẽ để mặc cho giai âm rền rĩ nuối không ngưng.
Và anh sẽ cảm giác lạ, nhìn không chớp mắt khi một tia sáng xôn xao, tại có vì Sao vỡ. Những thứ ấy là âm điệu của thơ tôi, âm điệu thiêng liêng tạo ra trong khi máu cuồng rên vang dưới ngòi bút.
Tôi làm thơ?
Nghĩa là tôi yếu đuối quá! Tôi bị cám dỗ. Tôi phản lại tất cả những gì mà lòng tôi, máu tôi, hồn tôi đều hết sức giữ bí mật.
Và nghĩa là tôi mất trí, tôi phát điên.
Nàng đánh tôi đau quá, tôi bật ra tiếng khóc, tiếng gào tiếng rú… Có ai ngăn cản được tiếng lòng tôi?
Tôi đã sống mãnh liệt và đầy đủ. Sống bằng phổi, bằng tim, bằng máu, bằng lệ, bằng hồn. Tôi đã phát triển hết cả cảm giác của Tình yêu. Tôi đã vui, buồn, giận hờn đến gần đứt sự sống.
Thôi mời cô cứ vào…
Ánh sáng lạ trong thơ tôi sẽ làm cho gò má cô đỏ gấc. Và một khi cô đã vào là cô sẽ lạc, vì vườn thơ tôi rộng rinh, không bờ bến. Càng đi xa càng ớn lạnh.”
Lý do Hàn Mặc Tử rời mái trường theo nghiệp làm thơ là thế đó. Nhưng cuộc sống bắt buộc chàng phải đi kiếm việc. Chàng chấp nhận làm thơ ký cho một hãng buôn để sinh sống. Đến năm 1931, bút hiệu Phong Trần đột nhiên nổi tiếng trong chốn thi giới ở kinh đô Huế. Số là cụ Phan Bội Châu, một chiến sĩ cách mạng chống Pháp, đang bị an trí tại Huế, muốn quy tụ giới trí thức yêu nước, đã mở một thi đàn lấy tên là Mộng Du Thi Xã. Thơ phú bốn phương gửi về rất nhiều. Nhà thơ Phong Trần Nguyễn Trọng Trí, lúc ấy mới 19 tuổi, cũng gửi 3 bài tham dự. Không ngờ, 3 bài đó là: Đêm Không Ngủ, Chùa Hoang, Gái Ở Chùa đã được cụ Phan Sào Nam nhiệt liệt khen ngợi. Cụ họa lại và cho đăng báo để giới yêu thơ cả nước thưởng thức. Cụ còn cẩn thận viết thêm lời khen tặng như sau:
Từ khi về nước đến nay, được xem nhiều thơ văn quốc âm, song chưa gặp được bài nào hay đến thế. Hồng Nam, Nhạn Bắc. Ước ao có ngày gặp gỡ để bắt tay nhau, cười to một tiếng, ấy là thỏa hồn thơ đó.
Lời khen nồng nhiệt đó làm Nguyễn Trọng Trí hứng khởi, chàng liền ra Huế, hội kiến với cụ Phan Bội Châu, và bắt đầu sáng tác thi ca kêu gọi lòng yêu nước. Chính vì lý do này mà Nguyễn Trọng Trí đã bị sở Mật Thám Pháp theo dõi, và gạc tên khỏi danh sách các học sinh sang Pháp du học, mặc dù chính cụ Nguyễn Hữu Bài, vị thượng quan triều đình Huế lúc bấy giờ, tích cực can thiệp, giúp đỡ.
Năm 1932 cậu Trí xin được việc làm ở Sở Đạc Điền Quy Nhơn. Công việc ở đây không bận lắm, cậu có nhiều thì gi đọc sách. Trong cuốn sổ ghi tên người mượn sách ở thư viện, người ta thấy tên của cậu đã chiếm quá nửa. Và cũng tại đây, chàng đem lòng yêu Hoàng Cúc, con gái ông chủ sự mà chàng đang làm dưới quyền. Mối tình đang xuôi xắn êm đẹp, thì bị cha cô chấm dứt, với lý do: chàng không xứng mặt với con gái của ông. Buồn vì bị khinh thường, Nguyễn Trọng Trí xin nghỉ việc và lên Đà Lạt thăm thi sĩ Quách Tấn. Đó là đầu năm 1933 lúc cậu Trí vừa tròn 21 tuổi.
Tại Đà Lạt, thi sĩ Quách Tấn đưa Nguyễn Trọng Trí đi thăm danh lam thắng tích. Trí sống ở đây không lâu lắm, song vẻ đẹp huyền mơ của Đà Lạt đã ảnh hưởng sâu đậm vào thi hứng của Trí, giúp ông sáng tác bài Đà Lạt Trăng Mờ. Cố nhạc sư Hải Linh đã phổ nhạc cho bài thơ này, và chính ông đã điều khiển ca đoàn Hồn Nước trình diễn bài Đà Lạt Trăng Mờ.
(Nguyễn Long Thao-Vietcatholic)
Share this:
-
Click to share on Facebook (Opens in new window)
-
Click to share on Google+ (Opens in new window)
-
Related
Học Viết là chuyên trang về tuyển chọn các áng văn chương Việt Nam, qua đó giúp cho độc giả nắm được thế nào là một bài viết hoặc một tác phẩm hay.