THƠ CHỮ NÔM CỦA NGUYỄN KHUYẾN
Bên cạnh những bài thơ chữ Hán thâm trầm triết lý, Nguyễn Khuyến còn viết nhiều thơ chữ Nôm. Trong đó, lừng danh bậc nhất có lẽ là chùm ba bài thơ về mùa thu họa lên cái hồn thu miền thôn dã Bắc Bộ. Với thơ Nôm, Nguyễn Khuyến gửi gắm nhiều tâm sự giản dị đời thường rất chân thật, từ nỗi “ngán đời”, cái tự trào nửa đùa nửa thật, đến cả cái cười trào lộng với những trò đời giả dối và nỗi đau trước cảnh nước nhà loạn lạc.
Chúng tôi xin giới thiệu các bài thơ chữ Nôm hay nhất của Nguyễn Khuyến
THU ĐIẾU
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
THU ẨM
Năm gian nhà cỏ thấp le te,
Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè.
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt?
Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.
Rượu tiếng rằng hay, hay chẳng mấy.
Độ năm ba chén đã say nhè.
THU VỊNH
Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.
Nước biếc trông như tầng khói phủ,
Song thưa để mặc bóng trăng vào.
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không ngỗng nước nào?
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.
BẠN ĐẾN CHƠI NHÀ
Đã bấy lâu nay bác tới nhà.
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.
Ao sâu nước cả, khôn chài cá,
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà.
Cải chửa ra cây, cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.
Đầu trò tiếp khách, trầu không có,
Bác đến chơi đây ta với ta.
CUỐC KÊU CẢM HỨNG
Khắc khoải đưa sầu giọng lửng lơ,
Ấy hồn Thục đế thác bao giờ?
Năm canh máu chảy đêm hè vắng,
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ.
Có phải tiếc xuân mà đứng gọi,
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ?
Thâu đêm ròng rã kêu ai đó?
Giục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ.
NGÁN ĐỜI
Nghĩ đời mà cũng ngán cho đời
Câu cóp làm sao được với trời?
Chép miệng, lớn đầu to cái dại
Phờ râu, chịu đấm mất phần xôi
Được, thua, hơn, kém, lưng hồ rượu
Hay, dở, khen, chê, một trận cười
Dựa gối bên song toan hoá bướm
Gió thu lạnh lẽo, lá vông rơi
TỰ TRÀO
Cũng chẳng giàu mà cũng chẳng sang,
Chẳng gầy chẳng béo, chỉ làng nhàng.
Cờ đương dở cuộc không còn nước,
Bạc chửa thâu canh đã chạy làng.
Mở miệng nói ra gàn bát sách,
Mềm môi chén mãi tít cung thang.
Nghĩ mình lại ngán cho mình nhỉ,
Mà cũng bia xanh, cũng bảng vàng.
VỊNH TIẾN SĨ GIẤY (BÀI 2)
Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai.
Cũng gọi ông nghè có kém ai.
Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng,
Nét son điểm rõ mặt văn khôi.
Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ?
Cái giá khoa danh ấy mới hời!
Ghế tréo, lọng xanh ngồi bảnh choẹ,
Nghĩ rằng đồ thật, hoá đồ chơi!
HỘI TÂY
Kìa hội thăng bình tiếng pháo reo:
Bao nhiêu cờ kéo với đèn treo.
Bà quan tênh nghếch xem bơi trải,
Thằng bé lom khom nghé hát chèo.
Cậy sức cây đu nhiều chị nhún,
Tham tiền cột mỡ lắm anh leo.
Khen ai khéo vẽ trò vui thế,
Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu!
CÔ TIỂU NGỦ NGÀY
Ôm tiu, cắp mõ ngáy kho kho,
Gió lọt buồng thiền mát mẻ cô.
Then cửa từ bi cài lỏng chốt,
Nén hương tế độ đốt đầy lò.
Cá khe lắng kệ đầu ngơ ngác,
Chim núi nghe kinh cổ gật gù.
Nhắn bảo chúng sinh như muốn độ,
Sẽ quỳ, sẽ niệm, sẽ nam mô.